HẠNH PHÚC XIII
Dārassa saṅgaho:
Tiếp độ vợ.
Vợ chồng
là một vấn đề rất quan trọng trong đời người. Người mà được vui hay khổ cũng
tùy thuộc thái độ cư xử, hành động của vợ và chồng. Vì vậy đức Phật dạy: Tiếp độ
vợ là hạnh phúc cao thượng.
Tiếng phạn saṇgaha có nghĩa là giúp đỡ, tương trợ, tế độ
, tiếp độ; ý nói, khi người đàn ông đã có vợ, thì phải giúp đỡ vợ một cách tận
tình, còn phải biết cách chia ngọt sẻ bùi, hướng dẫn vợ theo đường ngay lẽ
chánh, phải đem đến sự lợi lạc, an vui cho vợ từ vật chất đến tinh thần! Theo
ngữ nghĩa ấy, ta thấy hình như người đàn ông bị bắt buộc phải tiếp độ vợ và như
vậy thì dường như người vợ không cần lo gì cho chồng. Sự thật người vợ vẫn phải
có bổn phận đối với chồng. Vợ là nội tướng, lo coi mọi công việc trong gia
đình. Người chồng ví như tay mặt, người vợ ví như tay trái. Vì tay mặt làm việc
nặng nhọc có tiền mua cà rá, nhẫn nhưng tự mình (tay mặt) không đeo mà cho tay trái đeo. Không
khác nào người chồng làm việc nặng nhọc có tiền đem về giao cho vợ. Bổn phận
người vợ là phải lo săn sóc của ấy không cho tiêu hao mất mác, ấy là phận sự của
nội tướng. Theo Việt ngữ, thì tiếng “chồng”và“vợ”có
một nghĩa nhứt định, nôm na ai cũng hiểu. Còn trong tiếng Phạn tương đương với
tiếng “chồng, vợ”của Việt
ngữ thì có nhiều nghĩa tùy theo trường hợp.
Phạn ngữ có ba tiếng tương đương với tiếng chồng của Việt ngữ: Sāmī, svāmī và ayya.Tiếng sāmī (Pāḷi) hay svāmī
(Saṇskrit) nghĩa là chủ,
chúa, thầy tổ, chồng. Tiếng ayya cũng có nghĩa là quý ông, ngài, chủ
- cũng là chồng. Nhưng tiếng sāmī chỉ người chủ hiền lành, tốt bụng,
bao giờ cũng thương yêu và hết lòng giúp đỡ người dưới, cũng như là giúp cho
chính bản thân mình. Còn tiếng ayya chỉ người chủ tính tình không cao đẹp
bằng sāmī, là người chủ không được tốt lành, thường
hay dùng quyền uy độc đoán làm cho người ta kinh hãi, khiếp sợ.
Phạn ngữ có nhiều tiếng tương đương với tiếng vợ của Việt ngữ: Đó là dāra, jāyā, paricārikā và bhariyā. Từ dāra và jāyā là vợ, người ta thường dùng. Từ paricārikā người ta ít dùng vì ngoài nghĩa là
vợ, nó còn để chỉ vợ bé hay người hầu gái. Thường dùng nhứt làbhariyā (vợ), từ này có nghĩa là người đáng nuôi, người
đáng thương hại, ý là người mà ai ai cũng yêu chuộng và muốn nuôi. Từ bhariyā này thường đi đôi với sāmī khi nói đến vợ chồng, tương đương
Việt ngữ.
Theo trong bộ kinh Anguttaranikāya có đoạn đức Phật dạy có bảy hạng vợ, tức
nhiên là cũng có bảy hạng chồng tương đối.
+ Bảy hạng vợ ấy là:
1. Vadhakābhariyā: Vợ như là đao phủ thủ, như kẻ sát nhân vì
luôn ác độc, hung dữ với chồng.
2. Corībhariyā: Vợ như kẻ trộm - vì luôn tiêu xài hoang
phí tài sản, của cải của chồng.
3. Ayyābhariyā: Vợ như chủ nhân ác ôn. Ayyā là bà chủ - nên hạng vợ này thường biếng
nhác, hỗn xược, đàn áp chồng, sai khiến chồng.
4. Mātābhariyā: Vợ như mẹ. Tức là hạng vợ có lòng từ mẫn,
luôn để ý chăm nom, săn sóc chồng như mẹ đối với con.
5. Bhaginībhariyā: Vợ như em gái. Là hạng vợ hiền thục, biết
kính trọng, biết yêu thương, biết tùy thuận phục vụ chồng như em gái đối với
anh.
6. Sakhibhariyā: Vợ như bạn. Cư xử, đối đãi rất tốt với chồng
và bình đẳng, thủy chung như một người bạn tốt.
7. Dāsībhariyā: Vợ như tôi tớ, như người ở gái. Là hạng vợ
biết kính sợ chồng, biết nhẫn nhục, biết hy sinh và phục vụ chồng như tôi tớ đối
với chủ.
* Vợ như đao phủ thủ: Đao phủ thủ là người giết tội nhân. Người
vợ thuộc về hạng này là người đàn bà nhiều sân hận, mặc dầu chồng có lo lắng,
nhường nhịn đến đâu, cũng không hề biết thương hại chồng, làm sao miễn cho vừa
lòng mình thôi. Người vợ này thường mắng nhiếc, chửi bới chồng, lắm khi còn
đánh đập chồng là khác nữa.
Đồng thời cũng có hạng chồng như đao phủ thủ vậy.
* Vợ như kẻ trộm: Người vợ này không trung thành với chồng,
thường lo việc sang đoạt, lường gạt, cướp bóc của chồng, đem tiền mua vui
riêng, như rượu chè, cờ bạc chẳng hạn, theo ý thích của mình.
Đồng thời cũng có hạng chồng như kẻ cướp.
Thành thật mà nói, vợ hay chồng đều có quyền xài tiền bạc có được trong
gia đình, nhưng khi đem ra tiêu dùng, cần phải có sự ưng thuận của cả hai người.
Còn khi nào một người trong hai người ấy có ý chi dụng riêng cho mình, có tác ý
lén lấy tiền ấy đem đi mua vui riêng, là không hợp pháp - luật đời hay luật đạo
đều không cho phép. Lại nữa, sự trộm cắp giữa chồng và vợ khó mà bắt cho được,
nên đây là hạng trộm cắp đáng ghê sợ nhất trong gia đình.
* Vợ như chủ nhân ác ôn: Hạng vợ này bao giờ cũng dành quyền hành
và giữ tiền bạc trong gia đình. Chồng chỉ là hư vị thôi, như tôi tớ trong nhà.
Hạng vợ này chỉ biết ăn, ngủ, thụ hưởng, biếng nhác, làm oai làm phách - chỉ
làm hại cho gia đình và mọi người sẽ ghét bỏ mà thôi.
Đồng thời cũng có ông chồng như ông chủ ác ôn vậy.
* Vợ như mẹ: Không ai thương con và lo cho con bằng mẹ.
Bà mẹ đối với con có tứ vô lượng tâm, như vị phạm thiên. Người vợ thương chồng,
lo cho chồng không nề cực nhọc tấm thân miễn là chồng vui là đủ rồi. Người vợ
có tâm như thế gọi là người vợ thương chồng như người mẹ thương con. Thật là hiền
thê hiền nội. Quả báo này thật không nhỏ. Chết rồi được sanh vào cõi trời.
Đồng thời cũng có người chồng thương vợ, lo cho vợ, như người cha lo cho
con vậy.
Gia đình nào được cảnh này chắc chắn gia đình ấy đầy hạnh phúc và vợ chồng
không hề xa nhau vì một lẽ gì. Đây là pháp rất cao quý, chúng ta nên hành theo.
* Vợ như em gái: Hạng vợ này kính mến chồng như anh trai,
vì như người em gái thường lo cho anh thật là đàng hoàng và chu đáo.
Đồng thời cũng có người chồng lo cho vợ như người anh lo cho em gái
mình.
* Vợ như bạn: Người vợ lo chăm nom săn sóc cho chồng như
người bạn lành săn sóc cho bạn mình và coi chồng như là bạn thân của mình vậy.
Đồng thời cũng có người chồng chăm lo cho vợ như bạn thân của mình.
* Vợ như kẻ tôi đòi: Đây là hình ảnh người vợ đảm đang, nhịn
ăn, nhịn mặc, hy sinh mọi điều cho chồng và lo phụng sự chồng - như là người
làm công lo cho ông chủ, không bao giờ để sơ thất mọi việc mà chồng đã giao
cho. Phạn ngữ dùng từ dāsī
(tôi tớ, người ở gái) là để
chỉ hạng vợ hết lòng chăm nom mọi việc cho nhà chồng - ta không nên hiểu theo
nghĩa xấu là thấp hèn, nô lệ - mà đó chính là người quản gia trung tín nhứt.
Đồng thời cũng có người chồng lo cho vợ như người quản gia lo cho chủ vậy.
Nếu gia đình nào có được bốn hạng vợ và bốn hạng chồng đã kể trên (4 hạng sau) thì gia đình ấy được an vui. Đức Phật
thường dạy đời là khổ, người ở trong đời là người đang trầm luân trong bể khổ.
Nhưng ngài biết chúng sanh mặc dầu biết khổ nhưng không dứt bỏ được, nên trong
tám muôn bốn ngàn chi pháp của ngài dạy, có pháp xuất thế gian và pháp còn
trong thế gian; những người hành theo pháp sau này sẽ được bớt khổ đi một phần
nào cũng như hành theo 38 pháp hạnh phúc vậy.
Sự yêu thương giữa nam và nữ về tình dục thì không có gì gọi là cao quý.
Vì loài thú cũng biết như ta vậy. Nhưng người đời cao quý hơn loài vật, là vì
người ta thương nhau bằng một tình thương trong sạch, hai bên biết lo giúp đỡ
cho nhau, lo lắng, chăm sóc cho nhau trong những khi hoạn nạn, bất trắc, ốm đau
- được coi như sống chết có nhau; và ngoài ra còn giúp nhau đi theo con đường
tiến hóa, an vui, hạnh phúc và cuối cùng là tầm cầu giải thoát như các bậc
thánh nhơn nữa.
Về sự tiếp độ nhau giữa vợ chồng, đức Phật có dạy trong bộ Dīghanikāya
đoạn Pātivagga rằng: Vợ chồng phải có pháp tiếp độ nhau là:
+ Chồng có 6 pháp đối với vợ là:
1. Thương mến, nể nang, hằng khen tặng và làm cho vợ được lợi ích, vừa
lòng.
- Tặng đồ dùng hợp thời, nhất là quà tặng kỷ niệm những ngày vui, mừng
sinh nhật.
- Dùng lời dịu ngọt đối với vợ.
2. Không khi dể vợ, nghĩa là không đối xử với vợ như kẻ ăn, người ở.
3. Không ngoại tình, không có vợ bé.
4. Giao cho vợ chủ quyền trong gia
đình.
5. Tặng vật trang sức, trang điểm sang
quý tùy khả năng mình.
6. Thường dẫn vợ đi xem những cuộc vui
như hội chợ.
+ Vợ đối với
chồng cũng phải có 5 điều là:
1. Lo thu xếp săn sóc việc trong gia
đình cho chu đáo.
2. Lo giúp đỡ quyến thuộc bên chồng.
3. Không ngoại tình.
4. Giữ tiền bạc, của cải mà chồng đã
giao phó.
5. Siêng năng làm công việc.
- Những pháp
trên là theo đời, còn với lẽ đạo tùy trường hợp người chồng hay vợ phải thực
hành theo 3 pháp là:
1. Tiếp độ hạng thấp - là dắt dẫn người
bạn trăm năm của mình biết bố thí, trì giới, nghe pháp, làm lành.
2. Tiếp độ bậc trung - là dắt dẫn người
bạn trăm năm của mình biết tụng kinh, niệm Phật, tham thiền.
3. Tiếp độ bậc cao thượng - là dắt dẫn
người bạn trăm năm của mình học minh sát tuệ và luôn luôn nhắc nhở sự hành đạo.
+ Tiếp độ vợ
con được những hạnh phúc là:
1. Làm cho tình thương yêu ấy càng ngày
càng thêm đầm ấm, bền vững.
2. Làm cho tâm đầu ý hiệp.
3. Là một điều đại thiện.
4. Là nhân làm cho tiền của dồi dào.
5. Được coi là người hành đúng theo
chân lý.
6. Được gọi là người không dễ duôi.
7. Làm khuôn vàng, thước ngọc cho con
cháu sau này hay là làm mẫu mực cho người ở bên cạnh mình.
8. Chư thiên và phạm thiên thường ca tụng
và hộ trì cho gia đình hành theo hạnh này.
Chính đức Đế Thích có nói câu kệ như vầy
với vị trời Mātali rằng:
“- Ye gahatthā puññakāra sīḷavanto
upāsikā.
Dhammene dāraṃ phosenti te manussāmi mātali”.
Nghĩa là: Này Mātali! Người cư sĩ nào biết làm phước, sống đời có giới hạnh;
lại còn là một thiện nam biết nuôi vợ đúng theo pháp, ta xin lễ bái người ấy.
Vị trời Mātali đáp câu kệ ấy rằng: Tâu đức Đế Thích! Ngài lễ bái kính trọng
vị cư sĩ nào mà người ta thường ca tụng thì người cư sĩ ấy quả thật là cao quý
trong đời. Vậy, ngài lễ bái kính trọng ai, tôi cũng xin được lễ bái kính trọng
người ấy.
Đế Thích là vị thiên vương làm chúa tể trong hai cõi trời Tứ Đại thiên
vương và Đao Lợi - mà ngài còn kính trọng người hành pháp theo pháp tiếp độ vợ
con, thì chư thiên làm gì mà không hộ trì và kính trọng!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét