KỆ NGÔN VI
HẠNH PHÚC XIX
Āratī viratīpāpā: Nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi
Đức Phật nhận thấy người còn nhiều phiền
não thì còn phải sanh trong cõi này, và cần phải có sự tiến hóa về hai phương
diện vật chất và tinh thần.
Vì vậy nên đức Thế Tôn mới dạy ta 38 điều hạnh phúc. Trong 33 điều
này, từ 1 đến 18, Phật dạy về đời, như xa kẻ ác gần người lành, đối xử với quyến
thuộc, phụng dưỡng cha mẹ, tiếp độ vợ con.
Đó là những điều đức Phật dạy đối xử với
gia đình và xã hội làm cho ta được an vui trọn kiếp hiện tại.
Từ hạnh
phúc XIX (19) trở đi, đức Phật
dạy về tâm, hay nói cho dễ nghe, dễ hiểu hơn, là ngài dạy về sự tiến hóa thuộc
lãnh vực tinh thần. Vấn đề dạy tâm là vấn đề quan trọng, phương pháp đưa tâm
con người tới chỗ cao thượng, đến một mức độ tối cao, vượt qua phiền não tiến đến
Niết-bàn - thật không phải đơn giản.
Dĩ nhiên sự cao thấp của tâm không lấy
mực thước hay bằng cấp làm tiêu chuẩn thông thường mà đo lường, đối sánh được.
Phật pháp lấy thiện và ác làm tiêu chuẩn,
do người hay tâm; hạnh phúc
XIX này dạy về sự cao thấp của
tâm.
+ Tâm phân ra làm 3 dạng khác nhau:
1. Tâm người nào chán ghét điều ác, quý
mến điều thiện gọi là tâm cao thượng hay tâm thiện.
2. Tâm người nào xu hướng theo thời,
theo cảnh - nghĩa là ác cũng theo mà thiện cũng mến, là tâm người bậc trung.
3. Tâm của người nào hoàn toàn ghét thiện,
ưa ác là tâm người thấp hèn hay gọi là tâm ác.
Thiện và ác là cây thước đo tâm cao thượng
hay thấp hèn.
Phạn ngữ của câu hạnh phúc này là āratī-viratī-pāpā cũng có thể nói tóm lại cho gọn: Pāpa-virati, nghĩa là nết hạnh tránh xa tội ác. Ārati nghĩa là không ưa hoặc ghê sợ; virati nghĩa là chừa hay trốn lánh.
Nói về phương pháp sửa trị tâm, đức Thế
Tôn dạy hãy tránh xa tội ác, khi nào ta không tránh xa tội ác, thì phương pháp
trị sửa tâm sẽ khó có được kết quả, nếu không muốn nói là không thể kết quả được.
Tại sao? Vì
khi tâm đang bị nhuộm đen, ta muốn
không bị đen, thì phải đem tâm ra khỏi nước nhuộm ấy rồi mới có thể giặt sạch
được, khi tâm nhơ nhớp thì nó làm cho thân nhơ nhớp. Vì vậy sự tránh xa tội ác
là việc mà các bậc trí thức thường thực hành theo.
+ Muốn dễ hiểu hơn, tôi xin chia hạnh phúc nầy ra
làm ba phần để giải:
1. Ý nghĩa của tiếng pāpa: Tội ác.
2. Sự tránh xa tội ác.
3. Hạnh phúc sanh lên vì tránh xa tội
ác.
(1)- Pāpa: Tội ác
Tội ác là gì? Tội ác là những điều hung
dữ xấu xa, ai ai cũng ghê sợ. Tội làm trái với pháp luật của chính phủ, so với
đạo đức nội tâm thì càng trái hơn nhiều. Tâm không trong sạch, xấu xa, thấp
hèn, hung ác là tâm tội lỗi. Người nào có tâm tội lỗi, người ấy gọi là người
ác, vì tội lỗi làm cho tâm người trở nên nhơ đục. Tâm nhơ đục vì tâm ấy bị các
pháp ác ngự trị. Ta có thể nhìn thấy sự biểu hiện bên ngoài trong hành động của
người ấy, tuy nhiên, ác hay thiện đều do tâm bên trong sai khiến, điều động.
Người có tội hay không cũng do nơi tâm
mà ra, như câu Phật dạy: Attāna
akataṃ pamattānāva visujjhati: Người
nào không tội người ấy được trong sạch. Kẻ
nào làm tội kẻ ấy bị tội. Như vậy còn có nghĩa là: Tội mà có, là do ta tạo ra,
do phiền não, bên trong chớ không do nơi một nhân nào bên ngoài cả - bên ngoài
chỉ là duyên phụ tùy. Sở dĩ có tội là do nơi mình tạo ra cả. Khi thấy đã làm tội
rồi, không một ai có thể giảm bớt cho người làm tội hoặc xóa bỏ tội ấy được,
đúng như lời Phật dạy: Suddhi asuddhi
paccattaṃ: Trong sạch hay nhơ đục là chuyện riêng của một cá nhân. Nāno aññaṃ visodhaye: Người này
không có thể làm cho kẻ khác trong sạch được. Lại còn có câu: Natthapāpaṃ agabbato: Tội không có
đến với người vô tội.
*
Tội ở nơi nào?
Như đã giải, tội làm cho lòng mình bực
tức, nóng nảy, lo sợ. Khi làm việc có tội là ta đã đánh mất sự yên ổn và thanh
bình của tâm hồn.
Đã biết rằng: Tội là nhân làm ta mất sự
an vui. Người biết yêu thương bản thân mình, họ rất vui lòng dứt bỏ tội ác để
cho tâm đươc thơ thới, an vui. Nhưng có người lại không nghĩ đến điều ấy, cứ mặc
kệ tới đâu hay tới đó. Hạng người này cứ để mặc cho phiền não thống trị, họ sống
mà dường như không có tâm, lại càng không có trí tuệ; cả đời chỉ biết đáp ứng
và thỏa mãn, rốt lại phải chịu khổ báo mà thôi. Họ không tôn trọng giá trị bản
thân, cứ để mặc cho nấc thang giá trị làm người của mình càng ngày càng giảm mất.
Những người này khó mà chữa trị cho khỏi căn bệnh phiền não, thống khổ được.
Khi người biết sợ tội thì cố nhiên phải
ráng diệt trừ tội. Nhưng có vấn đề quan trọng nhất, là người đời thường không
thể nhận định được rõ ràng đâu là ác, đâu là thiện thì phải làm sao? Vì lắm điều
chư tăng cho là có tội, người đời không nhận đó là tội, lại thấy đó là chuyện
vui hay vô tội! Cũng như bác sĩ bảo hút thuốc có hại, nhưng người hút thuốc lại
không thấy hại gì, trái lại, còn biện minh rằng, hút thuốc làm cho tâm hồn thơ
thới, sảng khoái, dễ chịu...
Trường hợp khác, kẻ trộm, khi trộm được
của, họ nghĩ rằng họ không khổ, mà tài gia mới khổ, vì bị mất của. Người trả được
thù, họ thấy vui mừng không thấy gì là khổ, mà người bị trả thù mới là người khổ.
Vì những quan niệm chủ quan, thiển cận, mê lầm điên đảo như vậy - nên lắm lúc lời
dạy của chư tăng không thể làm cho những hạng người ấy hối cãi bỏ dữ về lành được.
Sự thật, tội mà đức Thế Tôn dạy, là sự
xấu xa do tham lam, sân hận, si mê trong lòng người, khiến thế gian làm hại lẫn
nhau. Muốn biết tội thì chỉ có phương pháp là nên dụng trí tuệ quan sát lòng
mình coi có những gì xấu ở trong đó không?
Nguyên nhân sanh ra tội có mười điều
ác, đã có giải ở trước rồi, miễn nói ở đây.
(2)- Đây xin giải ba cách xa lánh tội ác:
a- Sampattivirati: Nghĩa
là xa lánh tội ác nhất thời, ý nói một người không biết tu hành, nghĩa là người
ấy không phải là tín đồ một tôn giáo nào, nhưng lúc gặp trường hợp có thể làm
nên tội được, nhưng họ không làm. Tôi xin đem lại một ví dụ của ông Cakkana khi còn nhỏ, chưa quy y Tam Bảo và
chưa biết tu là gì, nhưng đã cương quyết không làm tội.
“- Khi ông Cakkana còn nhỏ chưa
biết gì về đạo đức. Ngày nọ mẹ ông đau, lương y bảo là phải cần có máu thỏ tươi
mới làm thuốc cứu mẹ ông được. Ông anh liền sai cậu đi bắt thỏ. Khi cậu bắt được
thỏ ôm vào lòng, thấy thỏ run sợ, đôi mắt rất ngây thơ, trong sáng, cậu nghĩ rằng:
“Giết một sinh mạng khác vì mẹ ta là một việc không nên làm, vì chúng sanh nào
cũng sợ chết và tham sống, mà mình lại toan giết đi một mạng để cứu một mạng”.
Cậu liền vuốt ve thỏ và nói rằng: “Thỏ ơi! ta trả tự do cho ngươi, xin ngươi
hãy vui vẻ trở về với gia đình!”Rồi cậu trở về nhà, thành thật thuật lại chuyên
thả thỏ cho ông anh nghe, không dám giấu diếm. Ông anh nóng giận rầy mắng cậu.
Chẳng biết sao, cậu liền vào phòng mẹ ôm chầm lấy mẹ và phát nguyện rằng: “Từ
khi sơ sanh đến giờ, tôi không hề cố ý sát sanh, xin nhờ oai đức ấy cầu xin cho
mẹ tôi lành bệnh”. Do lời nguyện chân thật và phước báu ấy nên mẹ cậu liền
lành bệnh một cách nhiệm mầu!”
Sự tích này cho thấy một trường hợp
lánh điều ác, trong khi có thể làm được mà vẫn không làm.
b. Samādānavirati [2]: Nghĩa
là xa lánh những việc làm ác mà có phát nguyện trước. Đây là trường hợp của người
thiện nam hay tín nữ có phát nguyện thọ trì quy giới với một hay nhiều vị sư.
Người ấy có thể chịu chết chớ không để phạm vào điều mình đã thọ trì hay đã
phát nguyện giữ như sự tích sau đây:
“- Có ông thiện nam ở tại một ngôi làng
gần núi Dantavaddhamanātho, thọ bát quan trai giới từ ngài đại đức
Pingalabuddharakkhita tại chùa Ambariya. Sau đó, khi thọ giới xong ông đi cày
ruộng. Khi ấy bò đi lạc mất, ông lên núi tìm, vì vô ý ông bị một con trăn to quấn
siết. Lúc bấy giờ trên tay ông có cầm một con dao thật bén, ông mới nghĩ rằng:
“Một khi ta đã thọ giới với một bậc có đức hạnh thanh cao, ta không nên để giới
hạnh ta bị hư hoại”. Nghĩ như thế ba lần, ông mới quyết tâm rằng: “Ta nhất định
thà chết còn hơn là phạm giới!” Nói thế xong, ông liệng cây dao đó rất xa, vì
ông sợ rằng khi cây dao đó còn trên tay, ông sẽ giết trăn vì tâm ác hoặc vì
lòng tham sống. Oai lực của sự hi sinh bản thân mình để giữ giới hạnh cho trong
sạch làm cho trăn có cảm tưởng là đang quấn nhằm một lò lửa, nên lật đật
tháo ra và bỏ chạy”.
Nhắc đây để quý vị thấy, khi xưa các bậc
tu hành thật là chân chính, khi đã phát nguyện xong, họ ráng thọ trì cho tới
phút cuối cùng, thà chết chứ không bỏ giới.
c. Sammucchedavirati: Nghĩa
là xa lánh tuyệt. Đây là trường hợp của vị đã được đắc thánh quả rồi, không bao
giờ tái phạm tội lỗi, mặc dầu là rất nhỏ. Đó là bậc thánh nhơn hoàn toàn trong
sạch.
Chú giải có dạy rằng: Tâm là nhân phạm
lỗi, mà các bậc thánh nhơn đã kềm chế được tâm và diệt tận các phiền não thì giới
đức của các ngài không bao giờ bị vi phạm. Nhất là các ngài xa hẳn điều tội ác,
gọi là kammakilesa [3], tàu
dịch là tứ trọng mà chú giải là: Tâm chúng sanh hằng
bị nhơ đục nên tạo tác (nghiệp), bởi vậy, tạo tác (nghiệp) ấy được đức Phật gọi làkammakilesa, nghĩa là còn phiền não nên tạo nhiều tội
lỗi.
Kammakilesa gồm có bốn tội
chính: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ.
Những tội lỗi mà chúng sanh đã tạo ra sẽ
là nguyên nhân đưa chúng sanh đi vào cảnh khổ vì đó mà chúng sanh phải bị khổ,
nên gọi là tội. Trong bốn tội ấy, chỉ có nói
dối gồm nhiều chi tiết đã giải
ở trước rồi; ở đây chỉ muốn nhắc lại một sự tích nói về đâm thọc, là muốn làm
cho hai người đang thương yêu nhau trở nên thù oán hay ít nhứt cũng xa nhau. Sự
đâm thọc này, chẳng hạn, làm cho người xa nhau, ghét nhau cũng phạm vào tội đâm
thọc. Tôi xin nhắc tích trong bộ Pháp cú kinh:
- “Kể từ ngày thầy tỳ-khưu tên Koṇḍadhāna
xuất gia, mỗi khi thầy đi đâu, sau lưng thầy cũng có người phụ nữ đi theo. Ai
cũng thấy vậy, nhưng chính thầy thì không thấy. Những thí chủ để bát cho thầy đều
nói rằng: “Muỗng này về phần ngài còn muỗng này là phần cô bạn gái của ngài”.
Chư vị tỳ-khưu khác thấy vậy đinh ninh
rằng thầy Koṇḍadhāna phạm bất cộng trụ của giới thông dâm, mới đem chuyện ấy
thuật lại cho ông trưởng giả Cấp Cô Độc nghe và yêu cầu ông trưởng giả bạch Phật
đuổi thầy tỳ-khưu ấy ra khỏi chùa. Ông trưởng giả không dám làm vậy; chư vị tỳ-khưu
mới thuật chuyện ấy cho một bà đại thí chủ Visākhā hay và bà nầy cũng không dám
dự vào chuyện ấy. Các vị tỳ-khưu mới vào báo cho đức vua Ba-tư-nặc và cũng yêu
cầu như vậy. Đức vua nhận lời ngay. Chiều lại, vua ngự vào chùa, cho quan quân
bao vây mọi nơi. Tỳ-khưu Koṇḍadhāna nghe tiếng động ồn ào, mới từ trong cốc bước
ra xem. Đức vua tận mắt trông thấy một cô gái thấp thoáng sau lưng vị tỳ-khưu.
Đức vua muốn bắt quả tang, vào tận nơi, tìm coi nơi kẹt cửa, dưới gầm giường
nhưng không thấy cô gái, ngài mới hỏi:
- Bạch đại đức! Trẫm vừa thấy bóng dáng
một phụ nữ bước vào đây, cô ấy đâu rồi?
- Tâu Đại vương! bần đạo chẳng thấy.
- Chính trẫm trông thấy một phụ nữ đứng
sau lưng ngài.
Tỳ-khưu Koṇḍadhāna cất giọng quả quyết
rằng không bao giờ có, và ông cũng không bao giờ thấy người phụ nữ ấy.
Đức vua thầm nghĩ, lấy làm lạ, mới nói:
- Vậy xin ngài hãy đi ra ngoài.
Tỳ-khưu Koṇḍadhāna vừa bước ra ngoài
thì lập tức có người phụ nữ theo sau lưng. Đức vua thấy vậy mới mời thầy đi
vào. Thầy y lời, trở vào trong. Đức vua trông chừng theo hình của người phụ nữ ấy
nhưng bỗng dưng người phụ nữ ấy biến mất.
Lấy làm lạ, vua mới hỏi:
- Bạch ngài! Thế người phụ nữ ấy đâu rồi
?
- Tâu Đại vương! Bần đạo chẳng thấy
bóng dáng người phụ nữ nào cả.
- Xin ngài thành thật nói ra cho trẫm
rõ.
- Tâu Đại vương! Đại chúng đều nói rằng
có một người phụ nữ đi sau lưng bần đạo, mà bần đạo thì chưa hề thấy.
Đức vua mới nghĩ đây chắc là hình giả,
nhưng vẫn còn nghi hoặc, nên thưa rằng:
- Vậy xin ngài hãy đi ra khỏi nơi nầy một
lần nữa.
Thầy liền đứng dậy ra bên ngoài, thì
người phụ nữ lại hiện ra liền sau lưng thầy như bóng với hình. Đức vua lại hỏi,
thầy vẫn trả lời như trước.
Đức vua mới nghĩ “Quả thật là hình giả”,
rồi nói rằng:
- Bạch ngài! Một khi có điều khả nghi
không trong sạch như thế nầy - thì sẽ không có ai phát tâm trong sạch cúng dường
cho ngài cả. Vậy, từ nay, trẫm xin thỉnh ngài cứ vào cung nội, trẫm xin cúng dường
vật thực hằng ngày!
Các thầy tỳ-khưu xấu bụng thấy vậy mới
bảo với nhau rằng:
- Các vị hãy coi! Đức vua cũng chỉ là kẻ
hèn nhược! Chúng ta mời ông đến đây, tố cáo một chuyện tệ hại, để nhờ sự công
minh của ông. Ai ngờ, khi thấy rõ sự thật, đã không chịu bạch Phật để đuổi thầy
tỳ khưu phá giới ấy, lại mời vào hoàng cung cúng dường nữa chớ!
Rồi các vị tỳ-khưu xấu bụng ấy, do tức
giận, do ganh tỵ, do si mê, đã chỉ tay vào mặt tỳ-khưu Koṇḍadhāna, mạt
sát rằng:
- Này kẻ đê tiện kia! Ngươi là kẻ phá giới! Và nhà vua cũng chỉ là tên khiếp
nhược!
Lúc trước vì không
có bằng cớ đáp lại, nhưng bây giờ được nhà vua làm chứng, nên tỳ-khưu Koṇḍadhāna
bèn mạnh dạn:
- Chính các ông mới
là kẻ phá giới! Chính các ông mới là kẻ dẫn gái đi!
Các tỳ-khưu phàm
phu kia tức giận, nên đem chuyện ấy vào bạch với đức Thế Tôn và nói là đã bị tỳ-khưu
Koṇḍadhāna chưởi mắng.
Đức Thế Tôn gọi tỳ-khưu
Kondadhāna vào và hỏi:
- Ông có chửi mắng
các vị tỳ khưu kia không?
- Bạch, bởi vì các
vị ấy mạt sát đệ tử trước!
Đức Thế Tôn hỏi các
vị kia, có chuyện thật như vậy không. Họ đáp:
- Chúng đệ tử thấy
có một phụ nữ đi theo sau lưng vị tỳ-khưu nầy - nhưng ông ta lại chối đây đẩy
là không có!
Đức Thế Tôn biết tất
cả mọi chuyện, muốn giáo giới họ, nên ngài mới hiển lộ nhân quả từ quá khứ:
- Nầy các thầy tỳ-khưu!
Chuyện các vị thấy bóng dáng một phụ nữ đi sau lưng tỳ-khưu Koṇḍadhāna là chuyện
có thật! Và tỳ-khưu Koṇḍadhāna không thấy, không biết chuyện ấy cũng là điều có
thật. Tất cả đều đã bị quá khứ che lấp. Chuyện về cô gái thấp thoáng sau lưng tỳ-khưu
Kodadhāna, làm cho ông ta bị hàm oan, bị các vị đồng phạm hạnh nghi kỵ, thanh
danh bị hoen ố là do dư nghiệp quá khứ của ông ta - đã từng tìm cách ly gián
tình bạn của hai vị đồng tu, một vị nghi ngờ phạm hạnh của vị kia làm cho tình
bạn tốt đẹp giữa họ với nhau phải bị tan vỡ! Các thầy có muốn nghe chuyện quá
khứ ấy không, Như Lai sẽ kể lại”.
Khi thấy mọi người
đã sẵn sàng, đức Phật bèn vén mở bức màn quá khứ:
“- Trong thời kỳ đức
Chánh Đẳng Giác Kassapa, có hai vị tỳ-khưu thương nhau không khác nào anh em ruột.
Mỗi năm chư tăng hội làm lễ phát lồ một lần. Gần đến ngày phát lồ, hai thầy rủ
nhau đến nơi hành lễ.
Có một vị thiên ở
cõi trời Đạo Lợi thấy hai vị rất thương yêu nhau, mới nghĩ rằng: “Hai vị nầy rất
quý mến nhau. Ta có thể nào tìm cách ly gian họ, chia rẽ họ - xem thử có được
không!” Đang suy nghĩ như thế thì trên đường đi, vị tỳ-khưu này nói với vị tỳ-khưu
kia: “Xin sư huynh hãy dừng chân, đợi tôi đi ngoài một lát!”
Vị thiên ấy mới đợi
cho thầy tỳ-khưu ấy đi ngoài xong, từ trong bụi rậm bước ra, liền hóa ra một
người phụ nữ, một tay nắm lấy quần, một tay vén tóc như vừa mới ân ái với vị tỳ-khưu.
Đợi đến khi biết chắc thầy tỳ-khưu kia thấy rõ ràng rồi, vị thiên mới biến hình
đi mất.
Khi vị tỳ-khưu kia
đến, vị này mới bất mãn nói rằng:
- Tôi không ngờ sư
đệ lại là kẻ phá giới một cách công khai và đê tiện như vậy!
Vị kia ngạc nhiên:
- Sư huynh nói gì
vậy, đệ không hiểu?
- Vừa rồi tôi
trông thấy một cô gái đứng sau lưng sư đệ!
- Làm gì có chuyện
ấy, thưa sư huynh!
Thế rồi, hai vị tỳ-khưu
cãi qua cãi lại. Rốt cuộc, phải chia tay nhau, ai đi đường nấy, mối tình huynh
đệ thâm thiết bấy nay thế là bị tan vỡ, khó hàn gắn được.
Vị thiên tạo sự ly
gián ấy chợt đâm ra hối hận, nghĩ rằng: “Ta đã làm nên tội quá đáng lắm rồi!”.
Bèn hiện xuống, thành thật thú nhận: “Hình ảnh cô gái là do tôi tạo ra để thử
tình bạn của hai vị. Phạm hạnh của vị tỳ-khưu bị oan này, vẫn hoàn toàn trong sạch.
Lỗi là do tôi. Xin hai vị bỏ qua cho mà cùng lên đường làm lễ phát lồ với
nhau.
Vì nghiệp nói lời
ly gián ấy, sau khi chết, vị thiên bị đọa địa ngục A-tỳ lâu dài bằng một khoảng
thời gian từ thời đức Phật Ca-diếp đến đức Phật Gotama. Hiện tại, y chính là tỳ-khưu
Koṇḍadhāna; và hình bóng cô gái thấp thoáng sau lưng ông ta - chính là cái nghiệp
thuở trước còn dư sót lại, nên ai cũng nghi ngờ phạm hạnh của ông ta không
trong sạch”.
Khi nhắc tiền kiếp
xong đức Thế Tôn kết luận bằng một câu kệ ngôn với ngụ ý rằng:
“- Không nên mắng
chửi kẻ khác. Nếu mắng chửi kẻ khác thị bị người ấy mắng lại, sự kình chống
nhau giữa hai bên phần nhiều đều đem đến tổn thương, họa hại. Khi tâm không bị
lung lạc vì hoàn cảnh, luôn giữ im lặng như mặt đất, thì không khác nào như cái
mỏ đã bị bể tiếng, không còn kêu được người ấy được coi như ở gần bên Niết-bàn
vậy”[4].
Sau khi dứt câu kệ,
tỳ-khưu Koṇḍadhāna đắc A-la-hán quả. Tích nầy để cho ta thấy rằng, chuyện làm
cho người ta ly gián, xa cách nhau, thậm chí ghét bỏ nhau là một tội nặng. Vậy
ta nên cố tránh, không nên đem chuyện nầy nói với người kia, lập lại cho kẻ
khác nghe - với dụng ý thêu dệt, gièm pha, đâm thọc... Chuyện mình nghe đâu,
nên bỏ đó, không nên đem vào nhà, cũng như không nên để nó vào lòng.
(3)- Sự xa lánh tội
lỗi được những hạnh phúc là:
1. Không có kinh sợ
và oan trái.
2. Đó là phước báu vĩ đại.
3. Không có bị bệnh tật.
4. Là người không dễ duôi.
5. Là người có sắc đẹp.
6. Được an vui trong ba cõi.
9. Người có thể hành theo chánh pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét