KỆ NGÔN IX
HẠNH PHÚC XXXI
Tapa: Sự cố
gắng đoạn tuyệt điều ác.
Tapa: Từ
này đã nói nhiều trong các đoạn trước có nghĩa là thiêu đốt, nóng hoặc là lửa.
Tôi xin nhắc lại rằng từ tapa là tiếng đã có trước khi đức Thế Tôn
thành đạo, là một tiếng cổ của đạo bà-la-môn thường dùng. Về sau đức Thế Tôn
truyền bá giáo pháp lại dùng từ tapa mà theo ý nghĩa khác, để chỉ những
hành động khác hơn thế nhiều. Vì vậy tôi tưởng nên giải rõ thế nào là bà-la môn
giáo, thế nào là Phật đạo.
Bà-la-môn giáo là một tôn giáo có lẫn với
giáo pháp cổ truyền của người trong cõi Diêm-phù-đề [1] ;
Bà-la-môn giáo thịnh hành về miền Bắc cõi Diêm-phù-đề - là từ sông Gaṅgā tại xứ
Bārāṇasī lên miền Bắc. Bà-la-môn giáo thuộc về đa thần giáo. Bà-la-môn giáo tin
rằng: Thế gian mà chúng sanh có đây là do nơi phạm thiên tạo ra, và phải đặt dưới
quyền điều khiển của phạm thiên. Tín đồ muốn sửa đổi định mạng của mình thì phải
có phương pháp cúng dường và cầu khẩn phạm thiên như thế nào là do các thầy
bà-la-môn chủ trương, sắp xếp các cuộc cầu nguyện hay tế lễ ấy.
Sau này có Phật giáo, Phật giáo truyền
bá rất mau và rất mạnh trong dân chúng, số tín đồ theo Phật giáo càng ngày càng
nhiều không kể xiết. Bà-la-môn giáo đổi lại là Hindu. Hindu giáo trộm lấy Phật
ngôn đem về dạy tín đồ của mình. Tín đồ Phật giáo một số là từ bà-la-môn giáo.
Vì vậy nên khi cần giảng giải pháp, đức Phật lại dùng ngay tiếng của bà-la-môn
để dạy, một là tiện cho người thời ấy hiểu, hai là chỉ cho thấy sự khác biệt của
triết lý hai tôn giáo. Như tiếngYanna, Hindu
giáo dạy ý là giết thú để cúng dường cho phạm thiên, nhưng trái lại, Phật giáo
dùng tiếng Yanna với nghĩa là bố thí. Tiếng Brahma [2] (phạm
thiên) trong
Hindu giáo là vị chúa tể tạo ra vũ trụ và chúng sanh, nhưng theo Phật giáo là
cha mẹ. Tiếng Bkahna (?) trong Hindu giáo chỉ là người hiểu
thông kinh luật của Hindu, nhưng trong Phật giáo, là người diệt trừ phiền
não... Còn rất nhiều từ, tự dạng và phát âm giống nhau nhưng nghĩa lại khác -
như vài ví dụ trên.
Nhờ đức Thế Tôn đem những từ cũ xưa ấy
dùng trở lại, và chỉ cho thấy ý nghĩa khác nhau ra sao, nên rất nhiều trí thức
bà-la-môn giáo nhận thấy lẽ phải, họ đã trở về nương tựa theo giáo pháp của đức
Phật.
+ Từ tapa của
bà-la-môn giáo, chung quy, gom tụ vào16 cách thức sau đây:
1. Gabbhā dhāna: Mang
thai bào, ý nói khi có thai người mẹ phải cho người trong gia đình biết và có
cách thức cúng và hành theo phương pháp của Hindu.
2. Punnusavan: Cách
thức rước hồn của đứa trẻ vào thai.
3. Sīmātayan: Cách
chia tóc của người có thai ra có giới hạn nghĩa là cách chải đầu của người có
thai.
4. Jātakaraṇa: Cách
thức sanh.
5. Nāmakaraṇa: Cách
thức đặt tên.
7. Cudakaraṇa: Cách
thức để tóc.
8. Kannābeda: Cách
thức xỏ tai.
9. Bijārambha: Cách
thức bắt đầu học văn chương hay nghề.
10. Yannoparita: Cách
cầm chỉ để làm lễ.
11. Bedarambha: Cách
thức học kinh Phệ-đà.
12. Samāpatti: Cách
thức làm lễ khi học xong.
13. Samāvantana: Cách
thức khi học xong rồi về nhà.
14. Bibah: Cách
thức làm lễ khi sính hôn.
15. Banaparāsa: Cách hành tapa.
16. Sanyāsī: Xuất
gia.
Trong 16 điều nầy, chỉ điều thứ 10
không phải là phận sự của người phụ nữ và điều 16 tuỳ ý người hành theo.
Ta thấy 16 điều nầy đi từng bậc một.
Pháp hạnh phúc của Phật giáo cũng hành từng giai đoạn một.
Hindu giáo dạy hành tapa rằng: Đợi đến đúng giờ ngọ,
hành giả ngồi giữa trời rồi đốt lửa xung quanh mình, mới lần đầu thì lửa để xa
hành giả chừng một sải tay, sau càng ngày càng đem lại gần hơn.
Hành giả học tham thiền thế nào để đạt
đến một mức độ là không còn thấy cảm xúc với sự nóng, hành tapa như vậy bà-la-môn (Hindu) giáo gọi là đốt phiền não.
Theo lịch sử Phật giáo, thì đức Từ Phụ
của chúng ta khi chưa đắc đạo, nghĩa là trong vòng sáu năm khổ hạnh, ngài cũng
hành tapa (khổ hạnh) theo thể thức và phương pháp
truyền thống của bà-la-môn giáo. Sau
khi từ bỏ khổ hạnh
ấy, sống trung đạo, ngài mới giác ngộ
chân lý.
Sau khi thành đạo được 9 tháng, ngài
thuyết câu này tại Vương Xá thành: “Khantī
paraman tapo titikkhā: Sự tinh tiến nhẫn nại là pháp cao quí nhứt của
tapa".
Trong câu này, đức Phật dùng từ tapa với nghĩa là pháp nhẫn nại, chớ
không theo quan niệm của bà-la-môn, là hơ, đốt hay thiêu phiền não.
Muốn giải rõ tapa tôi xin chia ra làm hai phần: Định
nghĩa từ tapa và cách hành tapa.
Tapa có
nghĩa là làm cho nóng, như nấu nước uống như câu phạn ngữ là Udakaṃ tapati. Còn câu Pacchā tāyati dukkaraṃ thì có nghĩa: Hành động tội lỗi, ăn
năn về sau. Ta có thể cắt nghĩa từ tapa là hơ, nướng, nấu, nung, thiêu đốt.
Theo Phật pháp, tapa ngụ ý chỉ sự làm cho nóng; làm cho
nóng rồi thiêu cháy hết những phiền não trong tâm ta, vì những phiền não ấy thường
nhiễu nhương tâm ta, không để tâm ta yên tịnh nên ta phải đốt nó.
Sự nhẫn nại là một pháp tapa. Có câu Phật ngôn dạy: Khantī tapo tapassino, nghĩa, nhẫn nại là tapa của người thực hành theo pháp tinh tấn.
Còn nữa, giới là một pháp tapa. Trong túc sanh truyện Somasaka có nói rằng: Ta sẽ dứt bỏ những trần
dục bằng tapa, ý nói, sự trì giới không cho phạm.
Bát quan trai giới cũng là một tapa vì nó là pháp ngăn ngừa không cho ác
pháp sanh trong tâm và đánh đuổi ác pháp ấy ra khỏi tâm.
+ Có 3 pháp tapa quan trọng.
2. Viriya: Tinh tấn
3. Indriyasaṃvara: Sự thu thúc lục căn.
(1)- Dùng trí
nhớ và trí tuệ quan sát tâm: Bất cứ trường hợp nào, đời hay đạo, ta cũng cần phải
có trí nhớ và trí tuệ để quan sát chuyện làm càn và làm bướng. Trí nhớ và trí
tuệ quan sát tâm là một pháp tapa có thể diệt trừ được các ác pháp
trong tâm và ngăn ngừa không cho các phiền não bên ngoài xâm nhập vào. Đức Thế
Tôn biết tâm chúng sinh hằng chạy theo dục trần, làm nô lệ cho phiền não, nên
ngài dạy phải dùng trí nhớ và trí tuệ quan sát tâm. Em của đại đức Xá-lợi-phất
là người có đủ trí nhớ và trí tuệ quan sát tâm nên giải thoát được - như câu
chuyện sau đây:
“- Khi xuất
gia, đại đức Xá-lợi-phất còn một người em trai và một cô em gái ở nhà [6]. Mẹ ngài là người tà kiến, không tin theo Phật giáo, nên ngài mới yêu cầu
chư Tăng, khi nào thấy em trai ngài xin xuất gia, thì cứ tự tiện cho, không cần
có sự ưng thuận của mẹ ngài.
Bà mẹ thấy con
trai trưởng của bà là đức Xá-lợi-phất xuất gia, bà sợ con trai út cũng xuất gia
theo anh, nên lo cưới vợ cho con. Ngày rước dâu, theo phong tục người thời ấy,
thì phải chọn một người rất già đến xối nước trên tay của cặp tân hôn, nên
trong họ chọn được bà ngoại của cô dâu là người có đủ điều kiện. Khi làm lễ, bà
ngoại vợ đến nắm tay cặp tân hôn xối nước và nói rằng: “Bà cầu chúc cho hai
cháu được như bà hôm nay”. (Ý rằng: Bà cầu xin hai cháu ăn ở với nhau cho đến
răng long tóc bạc như bà ngoại đây vậy).
Em của đức Xá-lợi-phất
nhìn vợ thì thật là đẹp, khi day qua trông thấy bà ngoại vợ già, miệng móm da
nhăn tóc bạc, coi thật xấu. Ông [7] mới thầm nghĩ rằng: “Bà ngoại vợ ta khi
còn trẻ cũng đẹp như vợ ta hôm nay, sắc đẹp ấy bây giờ không còn nữa, phải chịu
số phận già nua tàn tạ như thế. Vậy sắc đẹp đâu còn tồn tại mãi được; trên đời
nầy không có chi trường tồn bền vững - cái già, cái bệnh, cái chết rồi ai cũng
phải trải qua! Thảo nào mà anh ta đi tìm đường giải thoát”.
Suy nghĩ đến đó
chàng phát tâm chán nản mùi tục luỵ, ý chàng muốn xuất gia theo gương của anh,
chàng mới nghĩ ra được một kế, trên đường rước dâu chàng làm bộ đau bụng, cứ
đòi xuống đi ngoài mãi.
Nhiều lần như vậy
bà mẹ tưởng con mình bị bụng kiết nên không để ý, để cho chàng tự do và cho xe
rước dâu về trước, để chàng đi sau. Dịp may đã đến, chàng bèn thẳng vào chùa [8]ở gần, xin chư tăng cho xuất gia.
Chư Tăng hỏi:
Ngươi có được phép của cha mẹ cho xuất gia hay chăng?
- Bạch đại đức
không!
Chư Tăng không
dám cho xuất gia. Đức Thế Tôn cấm không cho người xuất gia nếu không được phép
của cha mẹ. Chàng mới la to rằng: “Bớ người ta! Ăn cướp! Ăn cướp!”. Chư Tăng lấy
làm lạ mới hỏi rằng: “Gã kia! Ngươi đã điên rồi chăng? Tại sao ở giữa Tăng chúng
mà ngươi la lên như thế? Ai cướp của ngươi?”
- Bạch chư
Tăng! Trong vòng sanh tử luân hồi, đệ tử đã bị ma vương cướp lấy duyên lành của
đệ tử rất nhiều rồi; và rồi đây tử thần sẽ cướp lấy sanh mạng nầy đi thì làm
sao gặp được chân lý của Phật.
Chư Tăng nghe
câu nói hàm ý sâu xa, biết cậu này là người có trí tuệ và lại rất cương quyết,
mới hỏi: Ngươi là con của ai ở vùng này?
- Bạch chư đại
đức! Đệ tử chính là em trai út của ngài Xá-lợi-phất.
Chư Tăng mới sực
nhớ đến lời dặn dò nhờ cậy của đức Xá lợi-phất trước đây - nên cho em ngài xuất
gia. Về sau em ngài Xá-lợi-phất đắc A-la-hán.
Nhắc lại tích nầy
để quí vị thấy rằng trong lúc đám cưới của mình, ngài đã trông thấy sự thay đổi
của thân nầy, đã dùng trí tuệ [9] quan sát thấy vô thường, khổ não và vô ngã, bỏ sự nghiệp
giàu sang và vợ đẹp mà xuất gia. Nhờ vậy mà đắc được A-a-hán quả.
Trí nhớ và trí
tuệ có quả báo cao thượng vô cùng vô tận như thế. Vậy ta nên áp dụng trí tuệ
trong mỗi trường hợp dầu trong chuyện rất nhỏ. Có vậy ta mới tránh khỏi tai nạn
và tội lỗi, mà đó cũng là nguyên nhân làm cho ta đắc đạo quả.
(2)- Tinh tấn: Trong bộ kinh Anguttaranikāya, đức Thế Tôn
có dạy rằng: Sự cố gắng tiêu trừ tất cả sự lười biếng gọi là tapa. Sự cố gắng tiêu trừ sự lười biếng là
nhân dẫn đến đạo quả và Niết-bàn. Người đời cũng vì lười biếng mà không tu hành
tinh tấn. Ta nên nhớ rằng: Việc gì ta làm chưa xong là món nợ chưa trả hết.
Đức Thế Tôn còn
giáo giới thêm rằng:
“- Không bao giờ
Như Lai giải đãi, vì Như Lai nghĩ rằng: Mặc dầu máu, thịt của ta khô đi, chỉ
còn da gân và xương, ta cũng chẳng màng, nếu ta chưa được quả Vô thượng Chánh Đẳng
Giác bằng sự tinh tấn.
Nầy các thầy tỳ-khưu!
Như Lai đắc được tuệ giác vì sự không phóng dật, dễ duôi. Pháp an vui tuyệt đối
là sự giải thoát khỏi luân hồi, Như Lai đã nhờ vào pháp không phóng dật, dễ
duôi. Nầy các thầy tỳ-khưu! Các thầy nên ráng tinh tấn, đừng thối chuyển. Nên cố
phát nguyện rằng: Máu thịt của ta có khô cũng mặc, bao giờ ta không đến nơi giải
thoát hoàn toàn bằng sự tinh tấn của người nam, thì ta không thối chuyển.
Nầy các thầy tỳ-khưu!
Trong thời gian không lâu các thầy sẽ đắc quả an vui tuyệt đối, sẽ đến nơi rốt
ráo, cùng tột của phạm hạnh. Vì lẽ ấy các thầy nên học nằm lòng rằng: Chúng ta
là người có sự cố gắng tinh tấn không giải đãi, ta phát nguyện rằng: Dầu máu thịt...”
Chú giải cũng lặp
lại ý của đức Thế Tôn: Khi Như Lai chưa đắc quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác, Như
Lai cố hành theo pháp tinh tấn, không hề thối chuyển dù thân nầy có tiều tụy,
còn da bọc xương mà không đắc đạo quả cũng không bỏ sự tinh tấn diệt trừ phiền
não, nhờ vậy mà dưới cội cây bồ-đề, Như Lai đã cảm thắng ma vương, diệt tận gốc
phiền não.
Vậy chúng ta
không nên thối chí ngã lòng, nên cố gắng cho đến hơi thở cuối cùng, như thầy tỳ-khưu
trẻ trong câu chuyện sau đây:
“- Có một thầy
tỳ-khưu trẻ tuổi học thiền định với đức Phật. Ông vào rừng cố hết sức tham thiền
ba tháng không hề dám giải đãi, nhưng không kết quả chi cả. Ông mới nghĩ đến lời
của đức Thế Tôn dạy và cho rằng mình là một trong bốn hạng người [10] không thể đắc quả trong kiếp nầy, vậy thì ở
rừng rất là vô ích, nên ông trở về chiêm ngưỡng tôn nhan của đức Từ Phụ và nghe
pháp ở chùa Kỳ Viên. Có nhiều vị tỳ-khưu biết thầy tỳ-khưu trẻ tuổi ấy chán nản
hành đạo, nên mới vào bạch Phật chuyện ấy.
Đức Thế Tôn mới
dạy tỳ-khưu trẻ tuổi ấy rằng: “Ông là người xuất gia theo giáo lý của Như Lai,
là nguyện đi theo con đường giác ngộ, giải thoát - sao ông không thực hành để kẻ
khác nhận biết ông là người tri túc, là người ít tham vọng, là người thanh tịnh,
người không chung đụng với thiện tín, là vị tỳ-khưu có nhiều tinh tấn?
Kiếp trước rất
nhiều người nhờ sự cương quyết tinh tấn của một người - người ấy là ông, đã nỗ
lực đập vỡ tảng đá - mà được uống nước, được cứu sống, khi ở giữa bãi sa mạc. Tại
sao bây giờ ông lại thối chuyển, từ bỏ tinh tấn?”
Khi ấy có nhiều
vị tỳ-khưu muốn hiểu rõ chuyện quá khứ, nên cầu xin đức Thế Tôn thuyết truyện ấy
cho nghe.
“- Lúc quá khứ,
có một đoàn người đi buôn bằng xe, có 500 cỗ xe đi bán tại xứ Bārāṇasī, phải đi
qua một bãi sa mạc 60 do tuần (một do tuần là 16 cây số ngày). Vì vậy nên những
người đi qua bãi sa mạc phải chuẩn bị đủ nước, gạo, cỏ... đủ dùng. Họ đi ngang
qua sa mạc chỉ đi ban đêm, nên người dẫn đường hay mỏi mệt. Khi đoàn xe ấy đi
được 59 do tuần - chỉ còn 01 do-tuần - người hướng đạo hay biết chuyện ấy nên bảo
bỏ bớt đồ cần thiết để nhẹ xe cho đỡ khổ đàn bò.
Vì đi đường nhiều
đêm, người hướng đạo mỏi mệt ngủ quên, xe quành trở lại chỗ cũ; ông bèn ngước mặt
nhìn lên trời xem sao mới biết là đi lạc, thì tình thế không còn cứu vãn được nữa,
đành ngừng xe cho nghỉ. Vật tối cần cho người đi trong sa mạc là nước, mà lúc
đó đoàn đã hết nước rồi. Người hướng đạo mới lo đi tìm nước. Đi cả ngày mới thấy
nơi nọ có cỏ mọc; nghĩ rằng thế nào ở dưới chỗ đó cũng có nước liền gọi
đoàn người đến đào. Khi đào chỗ ấy sâu đến 60 hắc tay mà không có nước, ai ai
cũng ngã lòng. Người hướng đạo coi thấy phía dưới có một tảng đá to. Y kê tai
nghe có tiếng nước chảy mới gọi người phụ tá đến bảo rằng: “Nầy con, một khi mà
ta từ bỏ sự trì chí, thì cả đoàn đều chết khát, vậy con lấy khúc sắt nầy, nỗ lực
đập cho bể tảng đá ấy, tức thì có nước”. Người phụ tá trẻ tuổi ấy vâng lời trưởng
đoàn, không nề hà mệt nhọc, kiên trì đục đá, đục mãi đục hoài không nản chí. Mọi
người thất vọng bỏ đi nhưng người đục đá không bỏ cuộc. Cuối cùng, đức nhẫn nại
và tinh tấn của anh ta đã được đền đáp: Một vòi nước to bằng thân cây thốt nốt
phun lên, nhờ đó mà cả đoàn khỏi bị chết khát”.
Kể chuyện xong,
đức Thế Tôn nói: Những người có quyết tâm, không nản chí đào giếng giữa bãi sa
mạc, cũng như các bậc trí thức kiên chí, không lười biếng, không dễ duôi, sẽ
thành tựu được những lợi lạc to lớn.
Đức Thế Tôn
thuyết thêm pháp tứ đế. Vị tỳ-khưu dùng quán minh sát đắc A-la-hán quả. Đức Phật
mới dạy rằng: Người hướng đạo ấy
là Như Lai, còn người đập tảng đá ấy chính là thầy tỳ-khưu trẻ tuổi này”.
Như vậy, trong
trường hợp này, Tapa là sự tinh tấn đem lại hạnh phúc
như đã trình bày trên.
(3)- Thu thúc lục
căn (Indryasaṃvara): Chú giải bộ kinh
Maṅgalasutta có
giải rằng: Thu thúc lục căn gọi là Tapa, vì Tapa là pháp thiêu huỷ các ác pháp như
tham lam, sân hận, si mê. Hơn nữa, Tapa có nghĩa tổng quát là ngăn ngừa,
tiêu trừ các pháp ác.
Trí nhớ (niệm) không cho tâm phóng túng theo cảnh trần
gọi là thu thúc, vì thu thúc có nghĩa là ngăn giữ, phòng hộ, chận đứng không
cho lục căn tiếp xúc với lục trần; và khi tiếp xúc với lục trần thì phải biết bảo
vệ lấy lục căn.
Biết ngăn giữ,
phòng hộ, chận đứng không cho lục căn tiếp xúc với lục trần là nguyên nhân
thiêu hủy các pháp ác. Đức Thế Tôn biết khi lục căn không thu thúc, bị trần cảnh
xâm chiếm, thì phiền não phát sanh, đạo hạnh phải bị hư hoại, như sự tích đạo
sĩ sau đây:
“- Thời quá khứ
có một vị đạo sĩ tên Lomassakassapa, tiền thân của đức Phật, ngài hành đạo tại
rừng Tuyết Lãnh. Vì sự thực hành hạnh Tapa của ngài rất là tinh tấn, nên sức
nóng xông lên đến đức Đế Thích. Đức Đế Thích lấy làm lạ không biết vì nguyên
nhân nào, khi xem lại mới biết rằng có vị đạo sĩ đang thực hành hành Tapa với
nhiệt tâm, ý chí không gì lay chuyển nổi. Đế Thích cảm giác lo lắng, bất an, sợ
rằng với phước báu ấy, do thắng xa phước báu của ông - có thể chiếm lấy ngai
vàng của ông - nên mới nghĩ phương pháp để chận đứng hạnh Tapa của vị đạo sĩ ấy.
Đêm khuya lại,
ngài mới hiện đến long sàng của đức vua, phát hào quang sáng rực, gọi đức vua rồi
bảo rằng: Trẫm đây là Đế Thích, đến mách cho đại vương biết rằng, nếu đại vương
muốn làm chúa tể cả cõi Diêm-phù-đề nầy thì hãy giao công chúa cho vị quốc sư
Seyyaha, bảo đem đến rừng tuyết lãnh, cám dỗ cho kỳ được ông đạo sĩ tên là
Lomassakassapa.. Sau đó, đại vương nhờ đạo sĩ ấy giết thú tế thần lửa, nhờ quả ấy
đại vương sẽ không già, đau và chết như ta vậy, lại còn được làm chúa cõi
Diêm-phù-đề [11].
Sáng ngày, lâm
triều, đức vua thực hành theo lời của Đế Thích. Vị quốc sư đem công chúa
Candadevī đến trêu ghẹo đạo sĩ. Vì không thu thúc, nên vị đạo sĩ bị sắc đẹp của
công chúa làm lung lạc, bằng lòng theo quốc sư về thành làm lễ tế thần lửa. Người
trong xứ tựu đến xem rất đông. Dân chúng thấy vị đạo sĩ mình còn mặc đồ đạo sĩ
mà đi sát sanh, nên những người ấy mới la lên rằng: “Ông đạo sĩ, ông làm chuyện
không hợp lẽ đạo!” Rồi họ mới nói câu kệ:
- Balaṃ cando
balaṃ suriyo
Balaṃ samaṇa
brahmaṇā
Balaṃ
velāsamuddassa
Balāti balāti
balaṃ itthiyo.
Nghĩa là: Mặt
trăng có sức mạnh làm cho sáng bầu trời ban đêm, mặt trời có sức mạnh ban ngày. Sa-môn và bà-la-môn có sức mạnh là nhẫn nại. Nhưng chỉ có
hàng phụ nữ có sức mạnh hơn tất cả các sức mạnh khác.
Vì sắc đẹp của
công chúa Candadevī đã cám dỗ được vị đạo sĩ Lomassakassapa là người đắc được
pháp tapa, nên ông ta phải về làm lễ tế thần lửa.
Ý câu nầy nói rằng:
Những sức mạnh nào trên thế gian này cũng không bằng sức mạnh của phụ nữ, bậc
xuất gia hành tapa đến đỗi làm cho thiên vương Đế Thích nóng nảy, mà vẫn còn bị
cám dỗ vì sắc đẹp. Vì vậy các bậc trí thức nên biết rằng: Chỉ có sắc đẹp của phụ
nữ là mạnh nhất.
Trong lúc người ta
la như thế, vị đạo sĩ ấy đưa cây đao lên, định chém đầu một con voi để khai đao
- mở màn cho bọn đồ tể bắt đầu cuộc sát sanh lớn. Trước cái chết ấy, con voi
kinh sợ rống lên, kế đó những loại thú khác cũng rống la vang rền. Vị đạo sĩ
nghe tiếng la rống kinh hoàng của các con thú, bèn nghĩ: “Tất cả chúng sanh đều
sợ chết, kinh hoàng trước sự chết. Vậy ta nỡ nào giết chết bao sanh mạng để đổi
lấy một chút khoái lạc dục tình?
Thật là đáng hổ thẹn
với chính ta, hổ thẹn với các bậc thiện trí thức trên đời này!”
Đạo sĩ còn tự nhủ
rằng: “Việc làm của ngươi thật là độc ác và đê tiện”. Rồi đạo sĩ bỏ đao xuống,
ngồi kiết già, niệm đề mục thiền định, lát sau, ông đắc lại tứ thiền luôn cả
ngũ thông như trước. Đạo sĩ liền bay lên hư không, dạy nhà vua hãy bỏ sự cúng
dường không theo lẽ đạo và nên phóng sanh. Nhà vua trông thấy sự phi thường như
thế, liền vâng lời thực hiện theo lời răn dạy của đạo sĩ.
Chuyện nầy chỉ cho
ta thấy rằng, nếu vị đạo sĩ ấy biết thu thúc lục căn, không nhìn sắc đẹp của
công chúa, thì đâu phải chịu sự chỉ trích của dân chúng và sự hối hận sau khi định
làm một hành động xấu ác.
Vì vậy nên trong bộ
chú giải Sabbavasutta có dạy rằng: Người tu hành phải biết
thu thúc lục căn và có trí nhớ quan sát tâm trong mọi trường hợp. Một khi thiếu
trí nhớ không thu thúc lục căn thì thật là khó sửa trị.
Điều này có thể ví
như nhà vua muốn cho dân chúng được an cư lạc nghiệp, thì một mặt phải tra xét
kẻ bất lương cho nghiêm nhặt, còn một mặt thì phải tuần phòng, ban đêm phải
đóng khóa các cửa hàng, không cho kẻ bất lương có cơ hội xâm nhập.
+
Tapa có nhiều pháp khác nhau, theo đây tôi xin kể những pháp có tên là tapa:
1. Nhẫn nại.
2. Trì giới: Ngũ
giới, bát quan trai, tứ thanh tịnh giới.
3. Học thông kinh
luật của đức Thế Tôn dạy.
4. Hành hạnh đầu-đà.
5. Hành thiền định.
6. Hành minh sát
tuệ.
7. Thu thúc lục
căn.
8. Hành hạnh tinh
tấn.
+
Hành tapa được những hạnh phúc là:
1. Là đại phước.
2. Là người không
dễ duôi.
3. Là người vâng
giữ hành theo Phật ngôn.
4. Là người thông
hiểu theo phương pháp hành đạo.
5. Diệt bỏ được những
điều xấu xa.
6. Không chung đụng
với ác pháp.
7. Tự mình đi đến
cõi trời.
8. Người có chánh
tư duy.
9. Thường được hưởng
quả an vui.
10. Là người sẽ đắc đạo quả Niết-bàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét