Chủ Nhật, 18 tháng 9, 2016

38 PHÁP HẠNH PHÚC-26-TRI TÚC

HẠNH PHÚC XXIV

Santuṭṭhī: Tri túc vui thích trong của đã có

(Tri túc)

 Tri túc nghĩa là tư cách biết và lấy làm đủ (hay lấy làm thỏa mãn). Santuṭṭhī có được từ động từ santussati, có nghĩa là được vừa lòng, được vui thích. Tuy nhiên, ở trong văn cảnh này,santuṭṭhī có nghĩa là tri túc, an vui, bằng lòng với những gì mà mình đang có.

+ Tri túc có nghĩa là không tham lam, và nó có những trạng thái sau đây:

1. Alaggabhāvakkhano: Có trạng thái là không dính mắc theo pháp; nghĩa là không say mê trong cảnh trần (?) [4]
2. Apariggaharaso: Có trạng thái chắc chắn trong các biện pháp là phận sự (?) [5]
3. Anallīnabhāvapadatthāno: Có trạng thái không thoả thích trong sự truỵ lạc theo trần cảnh, là quả (?) [6]
4. Yonisomanasikārapadatthāno: Có suy nghĩ rất chu đáo bằng trí tuệ để phát sanh sự không tham làm nền tảng (?) [7]
 + Muốn hiểu rõ về tri túc thì ta nên biết qua 3 trạng thái của tri túc:
1. Sekena santoso (?) [8]: Thỏa thích trong của cải mà mình đã có.
2. Santenasantoso (?): Thỏa thích trong của cải mà mình đang có được.
3. Samena santoso (?): Thỏa thích vừa phải.
(1)- Thỏa thích trong của cải mà mình đã có:
Ý nói, của nào của mình đã có thì mình nên bằng lòng, thỏa thích với sở hữu ấy, không mong cầu của cải của người khác, nên gọi là tri túc.
Có lần, tôi (tác giả), đã bị một người chất vấn rằng:
- Người chỉ biết ưa thích trong của cải, sở hữu mà mình đã có, thì người ấy không bao giờ tiến hoá được. Nếu người trong xã hội này đều tri túc như vậy hết - thì làm sao xã hội này tiến hóa được? Tại sao đức Phật lại dạy điều trái ngược với xã hội như vậy?
Tôi đáp: Câu hỏi của ông tôi không phản đối. Nhưng xin ông cho tôi biết ý kiến của ông về hai hạng người sau đây, rồi tôi sẽ xin giải cho ông rõ.
Hạng A                                                                        Hạng B
Thương ta                                                                Không thương ta
Thương cha mẹ                                                       Không thương cha mẹ
Yêu vợ con                                                               Không yêu vợ con
Yêu tổ quốc                                                              Không yêu tổ quốc
Yêu nghề                                                                  Không yêu nghề.
Hai hạng người này ông chỉ cho tôi biết hạng người nào ông cho là tốt và hạng nào là xấu.
Ông ấy nói: Tất nhiên hạng A tốt rồi!
Tôi nói: Thế là ông đã gián tiếp nhìn nhận tri túc, và ông hành theo hạnh tri túc vậy. Chắc ông làm cho xã hội không tiến hóa rồi? Ông cho những người hạng A là tốt nghĩa là ông thỏa thích trong của đã có, ông đã tri túc vậy.
- Tại sao?
- Tại sao nữa! Ông biết thương ta, nghĩa là đang vừa lòng, biết đủ với chính mình, bản thân mình. Ông thương cha mẹ, có nghĩa là ông đang vừa lòng, biết đủ với cha mẹ mình. Với vợ con cũng thế, có thương vợ, thương con mới vừa lòng, biết đủ - nếu không vừa lòng, biết đủ - ông đi tìm vợ con khác thì nguy to! Tổ quốc cũng vậy, nếu ông không vừa lòng, biết đủ với tổ quốc mình, ông đi tìm tổ quốc khác, làm một người con ly hương, phản quốc sao? Nghề nghiệp đang có, ông lại không vừa lòng, biết đủ, lại chạy theo nghề nghiệp khác thì làm sao có được “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”! Hãy nhận thức cho sâu sắc thử xem?
Ông ấy gật đầu: Ồ, đúng vậy! Đúng quá! Giờ tôi mới hiểu rõ cái vi diệu của tri túc. Nhưng đặt để trường hợp, tôi không vừa lòng với của cải, tài sản đang có, muốn lao động làm ăn để cho hoàn cảnh khá hơn một chút - thì có phạm vào tri túc chăng?
Tôi đáp: Cái ấy còn tùy trường hợp, ông phải tự suy gẫm lấy. Ví dụ như ta có vợ, người vợ ấy rất tốt, nhưng ta lại thích một bà khác, ta chán bà nhà, muốn đổi lấy bà khác, thế là ta không tri túc. Còn nếu như ta có bệnh ghẻ ngứa, ta không thể tri túc với cái ghẻ ngứa ấy được mà phải tìm cách chữa trị cho lành! Trường hợp trước là phải trí túc, trường hợp sau là không thể tri túc tào lao như vậy được!
Ông ta lại gật gù: Tôi hiểu rồi! Ta không dại gì tri túc với hoàn cảnh đói nghèo nếu sức ta có thể làm việc để cải thiện chúng, miễn chánh mạng là được. Ta không ngu si gì mà tri túc, khi xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh - ta lại biết đủ trong đời sống lạc hậu. Ngay chính việc làm giàu, đức Phật cũng không cấm, mà ngài dạy chánh mạng, dạy biết tri túc những nhu cầu, tiện nghi cho bản thân mình, nhưng của cải thặng dư thì phải biết cúng dường Tam Bảo, biết bố thí, san sẻ áo cơm đến người nghèo khổ...
Tôi mỉm cười: Ông đã hiểu rất chính xác.

(2)- Thỏa thích trong của cải mà mình đang có được:

Thỏa thích trong của cải mà mình đang có được, có nghĩa là thỏa thích phần của mình được vừa với sức mình, không vượt quá khả năng mình. Chẳng hạn như mình làm việc với chánh phủ hay tư nhân thì mình được số lương tương đối với khả năng của mình, mình không mong và không đòi hỏi nhiều hơn số ấy. Đành rằng ai ai cũng muốn được nhiều, nhưng trước hết phải xét lại tài ba và sức lực của mình đã. Con người vì thiếu tri túc nên lòng tham dễ có cơ hội phát sanh, khiến người ta làm những việc tội lỗi như trộm cắp, tham nhũng, hối lộ... Tri túc là tấm vách chắc bền ngăn ngừa lòng tham lam. Khi ta được của gì chính tay ta làm ra, dầu nhiều hay ít, ta cũng thỏa mãn của ấy, không nghĩ đến của bất chánh chẳng phải của mình. Ví như người đi bắt cá, mặc dầu được con cá nhỏ trong tay, còn hơn là con cá lớn ở sông sâu.
Người biết như vậy gọi là người tri túc. Con người thường bị khổ vì muốn  được. Khi hai cái muốn  được không về với ta - là ta khổ. Khi cái muốn trong lòng gia tăng, mà cái đượclại không có, thì lòng người thật là nóng nảy khó chịu, làm những điều tội lỗi, khi ấy thì không còn phân biệt phải trái chi được nữa.
(3)- Thỏa thích vừa phải:
Đây là sự tri túc cao quí nhứt.
Trong trường hợp thứ nhì trên đây, thỏa thích trong của cải mà mình có được, là phương pháp kềm hãm tâm mình không cho thỏa thích, mong muốn những vật sở hữu không phải của mình, hay thấy của kẻ khác lại muốn, mặc dầu của kẻ khác có đẹp tốt hơn của mình thật.
Còn trường hợp thứ ba này, là thỏa thích vừa phải, thoả thích của cải mình đã được đó là của mình, mình thỏa thích của cải ấy, không bồn chồn thấy được của cải của ai khác tốt đẹp hơn của mình.
Có người hỏi: Vậy sự thỏa thích trong của cải vừa phải ấy lấy gì làm tiêu chuẩn, cho biết đâu là vừa phải, đâu là không?
Người đời phần đông đều tùy theo sở thích của mình làm tiêu chuẩn. Nhưng theo Phật dạy thì nên lấy ba điều sau đây làm tiêu chuẩn.
1. Yathālābha: Vừa với địa vị.
2. Yathābala: Vừa với khả năng, sức lực.
3. Yathāsārupa: Vừa với chức phận của mình
- Vừa với địa vị: Ta là người xuất gia hay là người cư sĩ. Nếu ta là bậc xuất gia thì nên biết mình là người khác hơn thế tục, biết rằng ta là người mới xuất gia hay là vị đại đức cao hạ. Còn nếu là cư sĩ thì nên biết địa vị của mình trong xã hội. Nói rộng thêm nữa - ví dụ nhà giáo, kỹ sư, bác sĩ, thương gia, lương y, nông dân, công nhân... mỗi mỗi phải biết tri túc trong địa vị của mình.
Người thiếu tri túc về địa vị, thì thường hay bị lâm vào hai tâm trạng:
a. Luôn tự cao, tự đại - hay sinh bất mãn, nghĩ mình tài giỏi mà địa vị không xứng - làm cho mọi người xung quanh không ưa thích, sinh ghét bỏ.
b. Khổ tâm vì muốn được của cải nhiều, vì tưởng rằng ta đây phải được của cải từng ấy, nhưng tại sao ta lại được ít hơn.
- Vừa với khả năng: Mỗi người đều có khả năng làm việc khác nhau. Vì vậy, khối lượng sản xuất hoặc thành quả có được - tuỳ theo khả năng của từng người, thì cố nhiên lợi tức ít hay nhiều thường được lượng định theo khả năng ấy. Vì vậy ta phải biết khả năng của mình, khi ta biết khả năng của ta, thì sẽ không bị khổ vì muốn được quá cao, quá nhiều so với khả năng của mình.
- Vừa với chức phận: Chú giải có dạy rằng: Người làm việc tùy theo chức phận của mình mà được lương bổng, đừng vội tham nhiều khi thấy người có quyền hơn mình được hưởng lương bổng hậu hĩ hơn.
Giải về tri túc đến đây cũng là vừa đủ để cho quí vị hiểu rõ - nhưng tôi còn muốn giải rõ thêm về tri túc của người xuất gia và người tại gia.
1. Tri túc của người xuất gia:
Tri túc của người xuất gia là tri túc trong tứ vật dụng: Y phục, vật thực, chỗ ở và thuốc men.
Thầy tỳ-khưu có tri túc trong y phục, không ham muốn những hàng vải đẹp, luôn luôn chỉ có tam y. Có vị tri túc thọ hạnh đầu-đà không nhận y của thí chủ mà chỉ lượm lấy vải dơ của người không dùng nữa để về làm y, như sự tích của một vị đại đức sau đây:
“- Có vị tỳ-khưu vào thành lễ tháp, ngài có ý muốn được người ta dâng cúng y. Sáng ngày, đi khất thực với một vị đại đức, ngài nghĩ rằng chắc mình sẽ được y trong thành. Khi suy nghĩ như thế, thì trí tuệ lại phát sanh rồi ngài tự bảo với mình rằng: “Các bậc xuất gia chân chính không vọng móng xấu xa như thế. Người vọng móng xấu xa như thế không xứng đáng được gọi là sa-môn”. Tâm ngài chợt trở nên yên tĩnh.
Trong đêm đó, có một người vì đau bụng đi ngoài không kịp, vấy cả trong tấm chăn choàng. Người ấy đem liệng tấm chăn ở nơi đống rác. Sáng ấy, vị đại đức đi khất thực, ngài thấy trong đống rác có tấm chăn choàng, phẩn ruồi lằn bu đầy. Ngài liền ngồi xuống chắp tay xá, làm lễ rất là tôn kính. Vị đại đức đi khất thực chung, thấy vậy mới hỏi rằng: “Tại sao ngài lại làm lễ đống rác một cách trịnh trọng như vậy?”
Ngài đáp: “Tôi nào có làm lễ đống rác! Tôi làm lễ là làm lễ đức Chí Tôn là đấng Từ Phụ của chúng ta! Ngài là đấng đã vứt bỏ ngai vàng, bảy báu, đi lượm lấy vải bọc tử thi của một cô đầy tớ bỏ trong rừng làm y phục. Ngài đã làm một việc mà khó có ai làm được”.
Khi đang nói, lòng ngài rất trong sạch với Ân Đức Phật; sau đó, ngài dùng trí tuệ, phát triển thiền quán nên đắc đạo quả A-la-hán”.
Tóm lại, các bậc xuất gia nên biết chừng mực, vừa phải, trung đạo, biết tri túc trong tứ vật dụng của mình.
2. Tri túc của người tại gia:
Người tại gia thì điều quan trọng nhứt là nên tri túc trong việc vợ chồng, bằng không sẽ bị tai hại - như trong sự tích sau đây:
“- Thái tử xứ Bārāṇasī dẫn vợ vào rừng Tuyết Lãnh chơi. Khi ấy, thái tử trông thấy Kinnārī là một giống nửa người nửa chim, thật đẹp. Thái tử cảm cái sắc đẹp ấy nên bỏ vợ mà đi theo Kinnārī. Bà vợ là Asitābhu thấy chồng bội bạc như thế,  chán nản tình đời, bà tìm đến xin tham thiền với một vị đạo sĩ. Bà đắc được tứ thiền.
Thái tử theo nàng Kinnārī đi sâu vào rừng, khi không còn lối đi được nữa, nàng bỏ mặt đất rồi bay cao. Thái tử không biết làm sao, đành trở về với vợ mình.
Khi bà vợ trông thấy thái tử vừa về đến, bà liền bay lên không, bỏ đi mất luôn. Thái tử lấy làm buồn khổ vì mất cả vợ mà không được người đẹp. Ông mới nói lời oán trách mình bằng một câu kệ với ý nghĩa là:
- Người không tri túc, là người tham lam quá mức, ước vọng không bờ bến, thì bị mất lợi lộc cũng như tôi - tôi bị mất vợ là Asitābhu cũng vì sự tham lam quá mức và cũng vì sự say đắm vô độ, không biết vừa, không biết đủ.
Khi ấy có một vị thọ thần trông thấy vậy, nghe thấy vậy mới gật đầu, nói rằng:
- Đúng vậy, người không tri túc, tham lam quá mức hằng bị mất lợi ích của mình cũng như thái tử ham mê nàng Kinnārī mà bị mất nàng Asitābhu. Con người vì tham lam, không biết tri túc nên mất lợi lạc, mất luôn cả hạnh phúc của chính mình!
Đây cũng là một bài học rất quí cho quí vị tại gia cư sĩ không biết tri túc trong ngũ trần. Sự không biết tri túc như thái tử nói trên, nếu không làm mất vợ thì cũng làm cho gia đình mất sự an vui, nếu không muốn nói là không còn tìm đâu ra sự an vui nữa. Phẩm hạnh của mình đều vì đó mà mất, vợ trước kia kính nể mình bây giờ không còn kính nể nữa. Đó là tôi chỉ nói sơ sơ thôi, mong rằng quý vị thấy cái tai hại đôi khi còn lớn hơn thế nhiều.

+ Người có tri túc hằng được những hạnh phúc là:

1. Là đại phước.
2. Dứt bỏ được các lo lắng bận rộn.
3. Xa dần tội ác.
4. Làm cho lòng mình được thơ thới.
5. Xa điều xấu, đến gần sự tốt đẹp.
6. Tự mình tạo cho mình trở nên người có đức hạnh tốt.
7. Tự mình đi dần ra khỏi khổ.
8. Hằng được an vui.
9. Luôn tự thức tỉnh lấy mình.
10. Không phạm vào điều ác.
11. Không sống chung với ác pháp.
12. Đang đi trên đường chân chánh.
13. Đang ở trong sự tiến hoá.
14. Người thích sự chân chật.
15. Người có sức mạnh về vật chất lẫn tinh thần.
16. Người hành đúng theo luân lý lễ giáo.
17. Đè nén được phiền não.
18. Tạo ra nhân lành.
19. Gọi là người hộ trì Phật pháp.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét