HẠNH PHÚC XVIII
Anavajjānikammāni: Nết hạnh làm những
việc vô tội
(Giữ chánh mạng trong đời)[9]
Khả năng của
người làm việc có thể chia làm 2 phần là:
1. Người làm việc được.
2. Người làm việc được
kết quả mỹ mãn.
Pháp hạnh phúc thứ X dạy làm việc không nên bỏ dở, nghĩa là
làm việc gì cũng phải cho đến chốn đến nơi. Hạnh
phúc thứ XVIII này lại dạy ta
về làm những việc vô tội.
Theo quan niệm thông
thường thì người nào làm được
việc thì gọi là hay, là giỏi.
Người ta thường khen ngợi những người làm
được việc như vậy, nhưng
không chịu xét đến tính cách và hậu quả của việc ấy, nó tốt hay nó xấu - tức là
tính chất đạo đức của công việc! Chính tính chất tốt xấu, đạo đức của công việc
mới nói lên giá trị của việc làm - phải biết dựa theo tiêu chuẩn đức lý ngàn đời
của Phật giáo, chiếu theo hạnh
phúc thứ XVIII.
Trong hạnh phúc XVIII này, đức Phật dạy: Làm việc chân chánh
là làm việc hoàn toàn vô tội. Việc làm vô tội nơi đây chia ra làm hai phần: Việc
làm và người làm việc.
+ Phật dạy có
3 việc làm vô tội:
1. Việc làm do thân.
2. Việc làm do khẩu.
3. Việc làm do ý.
Tóm lại là làm, nói
và suy nghĩ đều phải là vô tội.
Việc làm do thân là
việc làm nặng nề. Những việc ấy phải là việc vô tội: Không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm...
Việc làm do khẩu là
dạy học, hay giảng đạo cho người nghe, tuyệt đối không cho phạm vào giới nói dối.
Việc làm do ý là suy
nghĩ điều thiện như học tham thiền và đánh đuổi ý ác như cột oan trái oán
thù...
Quí vị đạo hữu có
nhiều tuổi, không còn làm việc nặng nề và không dạy học hay diễn thuyết về Phật
pháp, quý vị phải làm những gì? Thiết tưởng quý vị nên học tham thiền và quan
sát tâm, không cho tham luyến thái quá vào việc đời để vun đắp con đường vị
lai.
Tuy nhiên việc làm bằng
tâm như thế chẳng phải riêng để cho quý vị lớn tuổi mà cho tất cả các hạng người
trong thế gian, phương pháp này là phương pháp làm cho tâm mình được yên tịnh
và đi theo chánh đạo.
Việc làm vô tội
Việc làm thế nào gọi
là việc làm vô tội ?
Việc làm vô tội là
việc làm theo đúng lời Phật dạy. Theo quan niệm ở đời thì việc làm có tội là việc
gì chính phủ đã ra điều luật ngăn cấm mà ta còn phạm vào là tội. Có vị học theo
tạng Abhidhamma lại dạy rằng, điều nào ta làm dẫu hợp với chánh pháp như bố
thí, trì giới hay tham thiền, mà lòng mình còn mong mỏi sanh trong vòng tam giới
thì cũng gọi là có tội! Tại sao vậy? Vì tất thảy mọi phước hữu lậu (vattagāminikusala) đều là phước dẫn chúng sanh đi vào
luân hồi trong sanh tử. Do thế, điều ta làm mặc dầu là thiện, nhưng vì còn muốn
sanh trong tam giới, thế là vẫn còn đeo mang trầm luân, là việc làm có tội -
theo nghĩa rốt ráo.
Có vị lại dạy: Việc làm vô tội là phải
hành theo minh sát tuệ.
Hai định nghĩa trên
đây về giáo lý rất đúng; nhưng rất tiếc, vì thật là khó, không đem ra thực hành
được. Đây tôi xin ví dụ. Có người đi đường buổi trưa nóng bức, khát nước, múc
nước vũng bên đường uống. Nếu y múc nước phớt trên, thì bị rong bèo trên mặt nước,
còn múc xuống quá sâu thì bị nhằm bùn, bề nào cũng uống không được.
Muốn có nước uống được
thì y phải lấy tay khỏa rong rêu đi và múc nhè nhẹ. Người học pháp này rồi hành
theo pháp ấy, cũng vậy, nếu hiểu một cách nông cạn, thì không được chu đáo, làm
sao hành được. Còn bằng nghĩ cao sâu quá, cũng khó mà hành theo, vì lắm khi
pháp ấy không phù hợp với trường hợp của mình đang hành. Vì vậy pháp sư cũng
như người hành đạo đều phải biết pháp nào thích hợp với hoàn cảnh, mới có thể
hành theo được.
Phạn ngữ vajja nghĩa là tội lỗi. Nhưng tội lỗi
đây không phải là tội lỗi đối với chính phủ khiến bị phạt, bị tù hay bị cách chức. Vajja còn có nghĩa là bị la rầy, bị chỉ
trích, bị phê bình. Vì quan niệm khác biệt như vậy, nên chư đại đức thường bị
người đời chỉ trích theo quan niệm đời. Thường thì người đời thấy việc nào đó
và xem là có tội, nhưng chư đại đức thì không thấy như thế. Đúng vậy, cái tội
mà người đời thấy, được gọi là lokavajja, tội đối với đời. Ví dụ xưa kia, không
có xe hơi nên luật Phật không có giới điều cấm xe hơi. Tuy nhiên, hiện nay, nếu
có vị đại đức nào lái xe, chắc chắn sẽ bị người đời chỉ trích, vì người ta chấp
rằng chư đại đức là bậc không có gì hơn là ba y che thân và bình bát để xin ăn
thôi.
Đức Phật không dạy
riêng cho người tại gia hay xuất gia mà dạy chung cho hàng Phật tử nên thận trọng
trong những việc mình làm - đừng để bị phê bình hay chỉ trích (vajjakamma).
Tránh khỏi sự phê
bình hay chỉ trích ấy, chính là những việc làm vô tội vậy. Những việc làm vô tội
hay là những việc làm khỏi bị phê bình, chỉ trích theo Phật dạy: Là những việc
làm trong sạch đúng theo chánh pháp, không làm hại mình, không làm hại kẻ khác;
đừng vì lợi mình mà hại kẻ khác, hoặc hại mình mà lợi kẻ khác, không có oan
trái, oán thù, ganh tỵ.
Những việc làm vô tội
ở đời là những việc làm của người đời, như làm ruộng, làm vườn, mua bán, làm
công... những việc làm ấy không phạm pháp luật quốc gia, cũng không phạm đạo đức,
luân lý chung chung...
Còn những việc làm
vô tội theo lý đạo là những việc làm lành, lánh dữ để đem đến hạnh phúc và an
vui cho mình trong hiện tại và vị lai; nói cách khác là phải tạo những phước
báu như:
1. Phước báu thiện
sanh vào cõi dục giới. Nghĩa là phước thiện này còn lẫn phiền não - nên sau khi
quá vãng được sanh lại làm người phú quý hoặc hóa sanh vào sáu cõi trời dục giới
- phước này do bố thí, trì giới mà có.
2. Phước báu thiện
sanh vào cõi sắc. Nghĩa là phước này hóa sanh vào cõi phạm thiên hữu sắc. Ở cõi
trời này không có dục tính, không có nữ giới, không có vợ như cõi dục; người được
sinh vào cõi này là nhờ đắc được từ sơ thiền đến tứ thiền.
3. Phước báu thiện
sanh vào cõi trời vô sắc. Nghĩa là người đắc được thiền vô sắc nên được sanh
vào các cõi trời vô sắc. Cõi này không có thân xác, không có sắc, chỉ còn sự vận
hành của tứ danh uẩn (thọ, tưởng,
hành, thức) mà thôi. Cõi này
chỉ thọ hưởng hạnh phúc vi tế của thiền định, cụ thể là nhất tâm và xả.
4. Phước thắng sanh
vào thánh vức. Nghĩa là người đã diệt được lần lượt mọi phiền não trong tâm (tức 10 kiết sử), sau khi quá vãng, được vào tứ đạo quả
và Niết-bàn.
+
Sau đây là những việc làm vô tội theo giáo pháp: Thọ trì bát quan trai giới.
Thọ bát quan trai giới
được gọi là những việc làm vô tội. Bát quan trai giới làm cho tâm người được lắng
sạch những phiền não ở bên trong và đánh đuổi, ngừa đón những phiền não ở bên
ngoài, không cho nhập vào tâm.
Tám điều học ấy là:
- Không sát sanh.
- Không trộm cướp.
- Không thông dâm.
- Không nói dối.
- Không uống rượu và
các chất say.
- Không ăn sái giờ.
- Không múa hát, xem
múa hát; trang điểm nhẫn, xuyến, vòng bằng vàng, bạc, ngọc, kim cương; dùng nước
hoa, nhồi phấn, thoa son.
- Không nằm ngồi nơi
cao sang, xinh đẹp.
Trong
8 giới điều kể
trên, từ điều 1 đến điều 5 là giống như người thọ trì ngũ giới, chỉ khác chỗ
thông dâm và tà dâm. Giới tà dâm là không cho tư tình với vợ con kẻ khác, còn
giới thông dâm thì, trong ngày bát quan trai giới, dầu vợ nhà cũng không được gần.
Về
giới thứ 6, theo
nguyên văn của phạn ngữ, không ăn sái giờ là khi bóng đã xế qua một sợi tóc,
cũng không ăn gì nữa. Nghĩa là chỉ ăn được từ khi mặt trời mọc cho tới khi đứng
bóng. Đức Phật dùng bóng mặt trời làm tiêu chuẩn chớ không cần giờ. Vì đức Phật
biết rằng mỗi nơi giờ khắc khác nhau, thì khó cho chư tỳ-khưu theo, nên dùng mặt
trời để cho chư tăng sau này làm tiêu chuẩn. Giới này dạy giảm bớt sự ăn để người
tu hành bớt bận rộn về ăn uống, có dư thì giờ để niệm Phật, tham thiền. Giới
này còn làm cho chúng ta biết thiểu dục, tri túc. Vì miếng ăn mà chúng sanh làm
thêm nhiều tội lỗi. Người không ăn cơm chiều, trước chưa quen, thấy khó chịu;
sau dần thấy quen, thấy trong người dễ chịu và nhẹ nhàng; lại sinh ra ngủ ít,
nhờ vậy mà có thể tham thiền dễ dàng.
Về
giới thứ 7: Múa
hát, xem múa hát... Đức Phật muốn kềm hãm lại không cho ham mê theo tiếng hay,
vị thơm. Lại còn ngăn ngừa những ai vì luyến ái cái thân này, sợ mình già, lo
tìm cách che lấp cái già, tô phấn, thoa son để giấu nét nhăn, nhuộm tóc đen lại
để che tóc bạc... Không trang điểm thân này bằng vàng, bạc là để xa lần sự luyến
ái xác thân, và nhờ vậy, ta mới có thể tu tập thiền định hay hành minh sát tuệ
được.
Giới
thứ 8: Không
nằm ngồi nơi cao sang, xinh đẹp, cốt là để trừ những phiền não phát sanh do ham
mê nơi chỗ xúc chạm tốt đẹp, mềm dịu. Khi đã lỡ quen chỗ nằm ngồi mịn màng, cao
sang rồi, gặp nơi khác, chỗ khác như gỗ cây, giường ván chẳng hạn, phiền não sẽ
sanh lên làm cho tâm bị nhơ đục.
+ Bát quan
trai có ba cách khác nhau:
1.
Pakati uposatha: Nghĩa
là bát quan trai giới thường. Bát quan trai giới này thọ trì một ngày đêm. Mỗi
tháng có 8 ngày là mùng 5, 8, 14, 15, 20, 23, 29, 30 (tháng thiếu thọ ngày 28, 29).Người ta có thể thọ đủ tám
ngày, hay là 4 ngày, 2 ngày tùy theo sức mình, không ai bắt buộc.
2.
Paṭijāgara [10]uposatha: Nghĩa
là bát quan trai giới theo trật tự, theo đây thì trước ngày chánh của bát quan
trai giới một ngày, phải nhớ sửa mình trong ngày ấy, rồi ngày sau là ngày chánh
- nên tạm gọi đây là bát quan trai giới thọ ngày rước và đưa. Bát quan trai giới
này trong mỗi tháng có 12 ngày 1, 4, 6, 7, 9, 13, 16, 19, 21, 22, 24, 28, (tháng thiếu thì ngày 27).Bát
quan trai nầy nếu người thọ đủ mỗi tháng phải thọ 20 ngày (Muốn hiểu rõ xin xem nhựt hành của
Ngài Hộ Tông).
3.
Paṭihāriya uposatha: Nghĩa
là bát quan trai giới thọ trì từ ngày 16 tháng 6 tới ngày 15 tháng 9, nghĩa là
thọ theo ba tháng hạ của chư đại đức tỳ-khưu.
Trong bộ chú giải của
bài kinh Uposatha có dạy: Người muốn thọ bát quan trai cho trong sạch, thì trước
ngày thọ phải chín chắn trong một ngày đêm không nói tới gạo trắng, gạo đen,
cơm khô, cơm nhão; nói tóm lại, chuyện gì ngoài kinh luật nhà Phật, tuyệt nhiên
không nói đến.
Chúng ta không nên
thọ bát quan trai như người chăn bò, sáng ngày đến lãnh bò lùa ra đồng bỏ đó, mặc
kệ bò đói hay no cũng chẳng cần, miễn là chiều đem về giao đủ cho chủ thôi. Người
thọ bát quan trai, sáng ra đến thọ trì giới cùng nhà sư, khi thọ xong, về nhà
không nghĩ gì với giới cả, chỉ thọ cho có chừng, được phước chút nào hay chút ấy
thôi, cả ngày lẫn đêm không có niệm tưởng đến vô thường, khổ não, vô ngã. Người
thọ giới như thế gọi là bát quan trai như người chăn bò.
Cũng trong bài kinh
Uposatha, đức Phật còn dạy rằng: Nếu có nhà vua ngự trị trên 16 nước lớn trong
cõi Diêm-phù-đề này có cả 7 thứ châu báu; và là người có quyền uy sang trọng nhất
- nhưng cái phước ấy cũng vẫn không bằng 01
phần 16 [11] của
công đức thọ bát quan trai giới một ngày và một đêm.
Đây tôi xin nhắc
tích chuyện đức vua Udaya để quí vị thấy quả của bát quan trai giới.
“-
Trong thời quá khứ, tại xứ Bārāṇasī, có một ông trưởng giả tên Suciparivā thích
làm phước; những người trong gia đình ông, từ vợ con cho đến người ăn kẻ ở, ông
đều dạy cho họ thọ trì bát quán trai giới ít lắm một tháng sáu ngày.
Khi
ấy, có một người mới đến ở, người ấy làm việc rất siêng năng, không biết rằng tất
cả người trong nhà ông đều thọ bát quan trai giới. Ngày nọ nhằm ngày giới, nhân
công trong nhà chỉ ăn một buổi thôi. Riêng người làm công mới ấy cứ đi ra đồng
làm việc như thường lệ, vì anh không biết. Trong khi ấy những người khác không
đi làm, ngồi ở nhà niệm Phật, hoặc quan sát lại cái tâm của mình. Chừng anh đi
làm ngoài đồng về, người làm bếp mới dọn cơm ra cho anh ăn.
Anh
lấy làm lạ vì mọi khi, giờ này, người trong nhà tụ hội lại ăn uống đông vui, mà
bữa nay họ đi đâu mất hết? Anh ta mới hỏi người làm bếp. Người làm bếp đáp: “Những
người ấy giữ bát quan trai, nên họ về chỗ nghỉ của họ hết”. Anh ta mới nghĩ rằng:
“Ta ở chung với những người có giới hạnh, vậy ta không nên để cho ta thành người
không có giới hạnh”. Anh bèn không ăn cơm, vào hầu ông trưởng giả, rồi hỏi rằng:
“Thưa ông, nếu tôi phát nguyện thọ bát quan trai giới giờ này, thì tôi có được
phước của bát quan trai không?” Vị trưởng giả đáp: “Nếu ngươi thọ từ bây giờ
thì chỉ được một nửa ngày phước thôi”. Anh ấy bèn nghĩ rằng: “Dầu phân nửa cũng
được, còn hơn không có”. Rồi anh mới xin phát nguyện thọ trì. Sau khi thọ xong
về chỗ nghỉ, anh ta quan sát về cái tâm của mình, giữ cái tốt và xa cái xấu -
như chủ dạy bảo. Vì cả ngày làm việc vất vả, tối không có ăn gì, đến khuya, anh
bị trúng gió độc. Ông trưởng giả đem thuốc và vật thực lại cho anh và bảo rằng,
con hãy dùng thuốc và vật thực này đi, kẻo cơ thể không quen, nguy hiểm lắm
đó!”
Anh
ta thầm nghĩ: “Ta nguyện không phạm giới, khi đã phát nguyện thọ trì”. Anh mới
trả lời với vị trưởng giả rằng: “Hãy cho con giữ giới cho được trong sạch, dầu
chết con cũng không bỏ cuộc!”
Đến
rạng đông, anh không còn sức chịu đựng nổi nên mê man. Người nhà mới cho rằng
anh sắp chết, nên khiêng ra để ngoài hiên, vì người thời ấy không để người chết
trong nhà.
Ngày
ấy, đức vua Bārāṇasī ngự đi quanh thành để xem sự sinh sống của nhân dân. Anh
làm công ấy trông thấy sự sang trọng của nhà vua, liền thầm ước muốn được như
vua. Anh chết liền trong khi mơ ước như vậy, anh được sanh vào lòng hoàng hậu của
đức vua - do nhờ phước quả của bát quan trai giới. Sau khi anh được sanh ra, đức
vua đặt tên anh là Udaya. Khi được nối ngôi của vua cha, Udaya nhớ kiếp trước
nên ráng lo tu hành tinh tấn hơn nữa”.
Khi đức Thế Tôn kể
câu huyện này xong, ngài mới dạy rằng: “Này các thầy tỳ-khưu! Một khi người đã
thọ bát quan trai giới, thì gọi là làm những việc lành như các bậc trí thức xưa
kia đã được hưởng quả cao quý ấy”.
+ Những việc
làm vô tội theo Phật dạy, tổng cộng có 10 điều sau đây:
2.
Veyyāvaccakaraṇaṃ: Giúp
đỡ nhau theo lẽ đạo.
3.
Ārāmarupā: Cất
chùa
4.
Vanarupā: Trồng cây.
5.
Setukaraṇa: Làm
cầu.
10.
Sīlasampanna: Có
giới hạnh trong sạch.
+ Làm những
việc vô tội có những hạnh phúc là:
1. Gọi là người chuẩn
bị sẵn sàng trước khi chết.
2. Là đại phúc.
3. Ngăn đường ác đạo.
4. Diệt được phiền
não.
5. Là người hộ trì
Phật giáo.
6. Là người cúng dường
cao quý đến Tam Bảo bằng hành đạo
7. Được hạnh
phúc tùy theo ba-la-mật của mình đã làm.
[1] Ghi chú
lại cho rõ nghĩa: Cho với tâm yêu thương, mong cho người được hạnh phúc, an vui
- là cho với tâm từ. Cho với tâm bi mẫn, xót thương, muốn chia sẻ, an ủi - là
cho với tâm bi.
[2] Trong
kinh điển, nhiều nhất là trong Túc sanh truyện, hằng trăm câu chuyện về bố thí
được làm triệu phú, công chúa, hoàng hậu, hoàng đế, Chuyển luân Thánh vương,
các cõi trời - và đấy là ước mơ chung của chúng sanh. Để cho rõ ràng về nhân
quả của sự bố thí, tôi sẽ liệt kê ra đây 7 loại bố thí có nhân quả khác nhau -
để độc giả cùng tham khảo:
1/- Bố thí mong cầu nhân
quả - quả báo tương đương cảnh giới Tứ đại thiên vương.
2/- Bố thí với tâm không
mệt mỏi từ thiện xã hội - quả báo tương đương cõi trời Đao Lợi.
3/- Bố thí hiếu danh như đứng giữa ngã
tư đường để mọi người đều hay biết - quả báo tương đương cõi trời Dạ Ma.
4/- Bố thí với tâm cúng dường đến Tam
Bảo, nghĩ đến Tăng-già, lo cho Tăng-già; và, bố thí với tâm từ, tâm bi đến
chúng sanh - quả báo tương đương cõi trời Đẩu Suất.
5/- Bố thí rất nhiều nhưng với tâm hiếu
lợi, hiếu danh - quả báo tương đương cõi trời Hóa lạc.
6/- Bố thí không xiết kể, ngoài hiếu
lợi, hiếu danh còn ẩn bên sau thủ đoạn và mưu đồ nữa - quả báo tương
đương cõi trời Tha hóa tự tại. Vị vua cõi này là Đại ma vương.
7/- Bố thí với tâm không dính mắc, xả
ly, giải thoát là sự bố thí của bậc Thánh.
[4] 10 hồng danh là gọi quen, viết quen theo truyền thống
kinh điển của Trung Quốc sau truyền sang Việt Nam. Riêng truyền thống Nam
truyền, đại biểu là Myanmar thì chỉ có 9. Tôi ghi ra đây để độc giả tiện so
sánh, nghiên cứu - chứ không muốn nói đâu đúng, đâu sai. 9 hồng
danh là: 1)- Arahaṃ (A-la-hán); 2)- Sammā Sambuddho (Chánh Biến Tri hay Chánh
Đẳng Giác); 3)- Vijjā-carana-sampanno (Minh Hạnh Túc); 4)- Sugato (Thiện Thệ);
5)- Lokavidū (Thế Gian Giải); 6)- Anuttaro Purisadammasārathi (Vô Thượng Điều
Ngự Trượng Phu); 7)- Satthādevamanussānaṃ (Thiên Nhân Sư); 8)- Buddho (Phật);
9)- Bhagavā (Thế Tôn).
[7] Trong
bài có phân làm 03 cấp, nhưng chỉ giảng 01 cấp là sơ cấp, không thấy bậc trung
và bậc thượng.
[9] Anavajja:
Trong sạch, không uế nhiễm. Kamma: Nghề, nghề nuôi mạng. Vậy, Anavajjāni
kammāni: Nghề nuôi mạng trong sạch, chơn chánh - tức là tránh xa 5 nghề tà
mạng. Đại sư Viên Minh chuyển ý câu này là: Giữ chánh mạng trong đời!
[11] Đây
thường là con số tượng trưng, khái quát của người Ấn xưa, chúng ta thường tìm
thấy trong kinh điển - tương tợ 8 vạn 4 ngàn vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét