HẠNH PHÚC XXX
Kālena dhamma-sākacchā:
Tánh cách biện luận Phật pháp
theo thời. (Tùy thời đàm luận pháp)
Sự biện luận Phật pháp theo thời làm
cho trí tuệ tăng trưởng, làm cho tâm được an vui trở nên thấy xa, hiểu rộng. Biện
luận Phật pháp có mục đích giải cho rõ lý của Phật ngôn. Người biện luận luôn
luôn không nên lấy ý kiến - chấp thủ ý kiến - của mình. Tôi không cố ý nói rằng:
Ý kiến của con người là quấy, nhưng ý kiến ấy phải cho đầy đủ nhân quả, lý lẽ
và hợp tình cảnh mới có thể chấp nhận được. Điều cần yếu muốn biện luận Phật
pháp, trước hết ta nên bỏ lòng ngã ái tự cao, cho rằng ta đây là người thông hiểu
hơn những người có mặt nơi đây. Những vị ngã mạn như thế không chịu nghe theo ý
kiến hay lời nói đúng theo Phật pháp của người khác. 8 muôn 4 ngàn chi pháp của
Phật lưu truyền không phải là ít, ta không nên ngã mạn khi học sơ qua ba chuyện
túc sanh truyện hay ít pháp số, mà tự coi mình là bậc thông suốt lý lẽ của Phật
ngôn. Khi người có tánh tự cao, ngã ái, thì không thể biện luận Phật pháp và
không thể được an vui.
+ Biện luận Phật pháp
có năm chi là:
1. Adiṭṭhājotasākacchā: Biện
luận để hiểu thêm pháp mà mình chưa thông hiểu.
2. Diṭṭhasansandanasākacchā: Biện
luận pháp để hiểu rõ thêm pháp mà mình đã hiểu rồi. Khi ấy lợi ích phát sanh đến
ta.
3. Vimaticchedakasākacchā: Biện
luận pháp để giải sự nghi ngờ của mình.
4. Anumatisākacchā: Biện
luận pháp hầu tìm sự thật.
5. Kathetukamyatasākacchā: Biện
luận pháp bằng cách vấn đáp với bạn hay tự vấn đáp với mình.
Tóm lại: Biện luận Phật pháp là nhân
đem lại hạnh phúc, là dành riêng cho người muốn tìm lấy con đường giải thoát
cho mình, chớ không phải tranh biện để giành được sự khen ngợi của mọi người.
Nói đến biện luận Phật pháp, tôi không thể quên tích đại đức Xá-lợi-phất khi
còn là người cư sĩ.
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên là hai người
bạn rất thân, hai người đều là con trưởng của trưởng giáo bà-la-môn. Ngày nọ
trong thành Vương Xá có lễ, hai người rủ nhau đi xem.
Ngày ấy là duyên lành của hai người đã
đến, nên khi xem hát hai người đều có cảm tưởng rằng: Đời người không khác chi
anh kép hát trong một vở tuồng, khi mang râu đội mão là vua chúa, có khi vợ chồng
lại đóng làm mẹ làm cha, làm người thù nghịch, khi bỏ mão râu ra là anh kép
hát. Cuộc đời thay đổi như thế có gì gọi là vui đẹp.
Hai ông liền đem ý kiến ấy ra bàn với
nhau, thì họ đồng có ý kiến là tìm đường giải thoát ra ngoài vòng giả dối này.
Vì duyên lành chưa đến nên hai ông chưa gặp Phật. Hai ông mới vào học đạo với
ông Sañjaya. Nhờ thông minh nên hai ông học trong mấy
ngày đã thông hiểu, thấu triệt toàn bộ giáo pháp của Sañjaya. Hai ông bảo nhau rằng: “Đây không phải là con đường giải
thoát, vậy chúng ta chia nhau đi tìm pháp giải thoát, nếu ai tìm được phải cho
nhau biết”. Rồi chia mỗi người
đi một ngã.
Trong khi ấy, đức Thế Tôn đã thành đạo
và đã có 61 vị đại A-la-hán. Ngài cho mỗi vị đi mỗi phương để truyền chánh
pháp. Đại đức Assaji là một trong năm vị Kiều-trần-như đi về
thành Vương Xá, ở Trúc Lâm tịnh xá. Sáng ngày, ngài đi khất thực, ông Xá-lợi-phất
gặp được ngài và nghe ngài thuyết giảng (đoạn
này đã có giải ở đoạn trước).
Sau khi nghe một câu kệ, ông Xá-lợi-phất
đã đắc Tu-đà-hoàn. Ông về thuật lại cho ông Mục-kiền-liên nghe, ông Mục-kiền-liên
cũng đắc Tu-đà-hoàn, nên hai ông mới định theo Phật giáo.
Hai ông có tâm kính thành thầy cũ là Sañjaya nên vào khuyên ông xuất gia theo
chánh pháp. Ông Sañjaya không nghe theo và hỏi rằng: “Trong đời này người thông minh nhiều
hay kẻ ngu dốt nhiều?”.
- Thưa thầy, người thông minh ít.
- Vậy hai ông là người thông minh, hãy
đi theo thầy Cồ Đàm, còn người ngu dốt thì để lại cho ta.
Biết rằng không thể nào khuyên ông ta
theo chánh pháp được nên hai ông về Trúc Lâm tịnh xá xuất gia theo Phật.
Tùy thời thính pháp có quả báo cao thượng
không gì sánh bằng như các ngài vậy đó.
+ Biện luận Phật pháp
được những hạnh phúc sau đây:
1. Là đại phước.
2. Là người rất giỏi trong việc giải
đáp sự nghi ngờ cho những người khác.
3. Là người có nhiều trí nhớ và trí tuệ.
4. Được nghe và được học các pháp mà
mình chưa từng nghe.
5. Pháp đã học rồi nhưng chưa hiểu làm
cho ta hiểu.
6. Diệt bớt sự nghi ngờ.
7. Trở nên người chánh kiến.
8. Tâm trong sạch khi nghe pháp.
9. Là nguyên nhân cho người đắc quả cao
thượng.
10. Có thể giữ được pháp học, pháp hành
và pháp thành.
11. Có thể bố thí pháp được.
12. Làm cho Phật giáo được thạnh hành.
13. Giữ được dòng thánh nhơn (là bậc thông Phật pháp có thể thuyết
pháp cho người đắc đạo quả được).
14. Gọi là người đi theo thánh đạo.
[4] Cũng tương tợ các chú thích 100, 101 và
các chú thích khác - lời giải của pháp sư không chính xác ngữ nghĩa đã nêu -
chỉ có tính cách giảng rộng.
[5] Pháp cú 399: Người không tức giận bao
giờ. Trước lời phỉ báng - lặng tờ, nín thinh. Dẫu cho roi trượng phạt hình. Lấy
đức nhẫn nại làm binh hộ phòng. Tâm từ rải khắp hư không.. Những kẻ như vậy
xứng dòng bla-môn!
[7] Dịch thơ
PC 264, 265: Cái đầu trọc lóc phải chăng? Dối trá, vô hạnh gọi rằng sa-môn? Gỡ
bao nhơ bợn tâm hồn. Tỳ-khưu trí hạnh chánh chơn mới là (sa-môn).
[15] Thất
giác chi theo cách giải thích của pháp sư có lẽ để dành cho đại chúng có khái
niệm khái quát. Ta có thể hiểu rộng và sâu hơn một tí. Có 3 cách giả thích:
- Thất giác chi theo kinh điển, nếu giải thích theo từng chi
phần thì như sau: 1- Niệm: Chú tâm đến đối tượng. 2- Trạch pháp: Phân tích, lựa
chọn đối tượng ấy (thiện hay ác). 3- Tấn: Là tứ chánh cần (nỗ lực ly ác, dưỡng
thiện). 4- Hỷ: Hỷ này là Pīti, tức là phỉ. (Sau khi ly ác, dưỡng thiện sẽ có
một cảm giác khinh an, thư thái, dễ chịu lan tỏa trên thân - 5 pīti). 5- An:
Đây là cảm giác an lạc, an tịnh tràn đầy sung mãn cả thân tâm. 6- Định: Đây là
định của định hay định của tuệ - tùy thuộc thiền định hay thiền quán. 7- Xả:
Nếu thiền định thì định xả, nếu thiền tuệ thì tuệ xả.
- Thất giác chi nếu hiểu là những pháp có sẵn trong tâm của
bậc giác ngộ - thì 7 chi phần: Niệm, trạch pháp, tấn, hỷ, an, định, xả - luôn
luôn có sẵn trong và tâm vị ấy. Ví dụ, khi nhìn ngắm một đối tượng (thiền tuệ),
vị ấy có niệm, sau đó là trạch pháp. Sau trạch pháp liền có
tấn. Sau tấn sẽ có hỷ, an, định (định của tuệ) và xả. Đây là một tiến trình tâm
sẽ diễn ra trong tâm của bậc giác ngộ.
- Thất giác chi nếu hiểu là có thể tu tập từng chi phần
thì nên lưu ý: Niệm, trạch pháp, tấn có thể tu tập như một pháp môn, như một đối
tượng riêng biệt. Nhưng hỷ và an không thể tu tập vì nó là quả chứ không phải
nhân. Ở đây, khi niệm, trạch pháp, tấn đúng mức, thuần thục thì sẽ có hỷ và an.
Tương tợ vậy, trong thiền định, khi tầm tứ đúng mức, thuần thục - sẽ phát sanh
hỷ và an; sau an lạc thâm sâu sẽ có định: Cận hành định và an chỉ định. Lên đến
tứ thiền thì chỉ còn định và xả. Các bậc thánh nhân có định tuệ thâm sâu, vô lậu
tâm, vô lậu trí, lúc giáo tiếp, ứng xử, nhìn ngắm các pháp - họ luôn có tiến
trình tâm với 7 yếu tố giác ngộ này nên gọi là thất giác chi hay thất bồ-đề phần.
(Họ luôn hưởng hạnh phúc của lạc, định, xả).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét