HẠNH PHÚC XXIX
Samaṇānañca
dassanam: Nết hạnh được thấy, được gặp các bậc sa-môn
(Yết kiến bậc sa-môn)
Vấn đề sa-môn xin
giảng về ba điểm:
1. Người thế nào
được gọi là sa-môn?
2. Thế nào là được
thấy, được gặp các bậc sa-môn?
3. Được thấy, được
gặp các bậc sa-môn thì sẽ được những lợi lạc gì?
Phạn ngữ samaṇa người ta thường dịch âm là sa-môn
có nghĩa là thanh tịnh hay trong sạch. Thầy sa-môn là người xa thập ác, không
làm hại người hay vật, không ganh tị, là người có thân, khẩu, ý trọn lành.
Tóm lại, sa-môn
nghĩa là người không còn phiền não, hay phiền não đã vắng lặng rồi.
Thầy sa-môn là người
hay quán tưởng, quán minh để thấy rõ chân lý, là người đang hành trình trên con
đường của các bậc thánh nhơn.
Những người tự
xưng mình là sa-môn nhưng không có
những pháp của vị
sa-môn, những người ấy ví như kẻ cướp rất lợi hại mà nhà chức trách không thể
tìm ra tung tích để truy bắt được. Vì tướng cướp ấy không có khí giới trong tay
mà chỉ có lớp áo tu bên ngoài, họ ẩn trốn trong tăng chúng.
Nơi đây tôi xin
đem mấy câu Phật ngôn dạy trong kinh Pháp cú hầu quí vị làm tài liệu:
“- Na muṇḍakena
samaṇo
abbato alikaṃ bhaṇaṃ
Icchālobha
samāpanno
samaṇo kiṃ
bhavissati”. (PC 264)
Nghĩa là: Không phải
do nơi cái đầu cạo trọc mà người không giới hạnh, người vọng ngữ trở thành
sa-môn. Làm thế nào một người đầy tham vọng trần tục và đắm chìm trong ái luyến
lại có thể trở thành sa-môn?
Lại có câu:
“- Yo ca sameti
pāpāni
aṇuṃ thūlāni
sabbaso
Samitattā hi
pāpānaṃ
samaṇo ti
pavuccati”. (PC 265)
Nghĩa là: Người
đã trọn vẹn khắc phục các hành động ác lớn nhỏ, người ấy xứng đáng được gọi là
sa-môn vì họ đã vượt khỏi mọi điều ác [7].
+ Đây là pháp để chúng ta nhận định vị sa-môn:
1. Upasametikileso: Các phiền não trong lòng đều đã được vắng
lặng.
2.
Bhavitvākāyavacīcittappañño: Thân khẩu, ý và trí tuệ đã được tiến hoá.
3.
Uttamasamathasamannāgato: Có sự nhắc nhở mình rất hoàn toàn.
+ Bậc sa-môn thường có những thái độ và hành động sau đây:
1. Không làm hại
nhân, vật nào cả. Nghĩa là, nếu có làm hại một nhân, một vật nào hay xúi giục kẻ
khác làm hại, thì người ấy không gọi là sa-môn. Sa-môn là người đã diệt bỏ sự
giết hại nhau, và ngay cả những nói hơi khiếm nhã họ cũng không bao giờ dùng đến.
2. Không vì tư
lợi. Bậc sa-môn tự thấy, nếu còn sống ngày nào thì dùng thì giờ ấy để lo tu
hành hầu mau giải thoát thôi, không hề làm việc gì ngoài việc tu học. Bậc
sa-môn không hề làm gì, nói gì đến sự lợi lộc cho mình, ít nhất là sự mơ ước tư
lợi cho mình cũng không bao giờ nghĩ đến, và nếu có thì cố gắng diệt trừ.
3. Hành theo pháp
sa-môn. Bậc sa-môn là người xa hẳn thế tục nên không có phận sự gì có dính dáng
đến thế tục, chỉ có phận sự là dạy mình, nghĩa là luôn luôn lánh xa phiền não,
cũng như người thợ vàng luôn tìm cách lọc lấy vàng nguyên chất, vứt bỏ cặn bã
dơ trong vàng.
4. Hành theo pháp Tapa. [8] Tapa nghĩa là lửa hay là nóng, ý nói rằng thầy sa-môn
luôn luôn lo diệt trừ phiền não bằng các phương pháp như trì giới, nhẫn nại,
tham thiền minh sát tuệ.
Từ sa-môn xét theo
nghĩa thanh tịnh thì có 3 thanh tịnh sau đây:
- Thân thanh tịnh không lẫn phiền não như đánh đập hay giết hại
người hay thú. Bậc sa-môn ở nơi nào, không bao giờ làm hại nơi ấy, khi đứng dưới
bóng cây cũng không làm rụng một lá cây. Đức Thế Tôn đã có lần khen đức Mục-kiền-liên
rằng: Ngài là bậc có thần thông mà không bao giờ làm phiền lòng một chúng sanh
nào cả.
- Khẩu thanh tịnh nghĩa là không bao giờ phạm vào một tiếng
nói vô ích, dối trá, thêu dệt hay ác khẩu.
- Tâm thanh tịnh nghĩa là tâm đi ngoài vòng tội lỗi,
nghĩa là không để phiền não xâm nhập vào và nếu chưa đắc quả
cao thượng thì thường
nỗ lực diệt trừ phiền não bên trong.
Phật ngôn còn dạy
thêm để cho ta nhận biết thế nào là một bậc sa-môn: Người nào biết nhẫn nại với sự đói
khát, luôn dạy mình hành theo pháp tapa (pháp nóng) biết tiết độ về vật thực và
không vì miếng ăn mà làm tội thì Như Lai gọi người ấy là sa-môn.
Vậy, người nào có
đủ bốn pháp trên mới gọi là sa-môn. Còn những từ như xuất gia và tỳ-khưuthì
chúng có những ý nghĩa như thế nào?
Xuất gia là tiếng nói chung, chỉ các bậc trí thức
trông thấy người còn có gia đình là còn khổ, nên dứt bỏ gia đình hoặc thọ bát
quan trai ở trong rừng làm đạo sĩ, hay thọ thập giới, cũng ở trong rừng làm đạo
sĩ để hành một hạnh nào theo ý của mình - thì đều gọi là xuất gia.
Tỳ-khưu, là âm từ phạn ngữ bhikkhu, nghĩa là khất sĩ, hay nói cho dễ hiểu
hơn là xin ăn, nhưng là xin ăn cao thượng, xin ăn, nuôi mạng để thực hành theo
pháp cao thượng. Nó còn có nghĩa cao hơn, là người diệt trừ phiền não. Danh từ
tỳ-khưu chỉ có trong Phật giáo - là người xuất gia tu tập theo phạm hạnh, phải
hành theo Tứ thanh tịnh giới (Xin
xem luật xuất gia của đại đức Hộ Tông).
Chú giải có dạy rằng,
nếu được gặp các bậc sa-môn thì nên:
1. Upasaṅkamanaṃ: Đến gần, ý nói đến hầu để học hỏi
pháp giải thoát,
ngoài ra nên giúp đỡ các ngài những gì mà chúng ta có thể làm được.
2. Upatthānaṃ: Cúng dường tứ vật dụng đến các ngài
3. Anusāsanaṃ [9]: Nhớ đến các ngài, ý nói nhớ đến công đức của những bậc thầy đã dạy ta và cả
những pháp cao thượng mà mình đã thọ trì.
5. Dassanaṃ: Thấy, gặp, ý nói thấy và gặp bằng nhục nhãn
khiến phát tâm trong sạch. Phát tâm như vậy vẫn được quả báo như trong sự tích
sau đây:
“- Ngày nọ,
đức Thế Tôn ngự đến hang Indasalā, có một con chim cu đang đậu bên vệ đường,
trông thấy ngài có hào quang sáng ngời, nó liền phát tâm trong sạch. Đến sáng
ngày đức Thế Tôn ngự đi khất thực, con chim cu lại bay theo, vì nó cảm thấy
hoan hỷ được trông thấy tướng hảo quang minh xán lạn của ngài. Ngày khác, chim
cu thấy đức Thế Tôn ngự đi, có chư tăng theo hầu, mỗi vị đều có lục căn thu
thúc thanh tịnh càng làm cho nó thích thú, hoan hỷ không thể tả được. Chim cu
phát tâm kính thành và rất trong sạch, không còn biết làm sao để tỏ lòng, liền
bay xuống đứng giữa đường đi, hai cánh chấp lên, đầu cúi xuống tỏ vẻ đảnh lễ đức
Thế Tôn. Đức Phật thấy vậy biết thành ý của chim cu nên ngài mỉm cười và
bảo Ānanda rằng: “Nầy Ānanda! Chú chim cu này có tâm trong sạch với Như Lai và
chư tăng - là những bậc có đức hạnh cao thượng - hết kiếp này được sanh về cõi
trời và về sau, sẽ đắc quả Độc Giác Phật, tên là Somanassa. Phước quả này mà có
được thế là do nguyên nhân được thấy, được gặp các bậc sa-môn và phát tâm kính
thành, trong sạch. »
Trong bộ kinh
Bojjhaṅgasamyutta, đức Thế Tôn có dạy rằng:
“- Này các thầy tỳ-khưu!
Vị tỳ-khưu nào có giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến đầy đủ - nếu
trên thế gian nầy, ai được gặp, được thấy các vị ấy, được hầu cận các vị ấy, được
nghe lời giáo giới, tu học hoặc xuất gia với các vị ấy - thì sẽ thâu hái được
những lợi ích vĩ đại.
Tại sao vậy? Vì
khi người được nghe pháp của các vị ấy, thọ trì pháp của vị ấy thì thân sẽ
xa lánh điều ác và khẩu cũng xa lánh điều ác và rồi thân khẩu sẽ thanh tịnh.
Khi thân và khẩu
thanh tịnh thì tâm ý hằng nhớ đến các thiện pháp, suy nghĩ các thiện pháp và hằng
niệm tưởng các thiện pháp - được gọi là Satisambojjhaṅga: Niệm giác chi - nghĩa
là nhờ sự niệm (nhớ) [11] ấy mà giác ngộ. Niệm đây có ý nói là niệm tứ
niệm xứ.
Một khi được có
trí nhớ đầy đủ rồi, thì có trí tuệ thông hiểu các pháp, khi có trí tuệ thông hiểu
các pháp ráo rốt thì đắc được Dhammavicayasambojjhaṅga [12]: Trạch pháp giác chi nghĩa là sự suy nghĩ mà giác ngộ.
Khi cố gắng suy nghĩ
các pháp được chu đáo thì đắc được Viriyasambojjhaga: Tinh tấn giác chi, nghĩa
là nhờ sự tinh tấn mà giác ngộ. Khi sự cố gắng tinh tấn được hoàn toàn rồi, thì
đắc được hỷ lạc. Đây không phải là hỷ lạc của tình dục, hỷ lạc này sanh lên do
sự tinh tấn, gọi là Pītisambojjhaṅga [13]: Hỉ giác chi nghĩa là hỷ lạc, là nhân giác ngộ.
Khi thầy tỳ-khưu cố
gắng hành thêm nữa thì tâm sẽ được thanh tịnh. Khi tâm được thanh tịnh thì phát
sanh Passaddhisambojjahaṅga [14]: An tịnh giác chi, nghĩa là tâm an tịnh là nhân giác ngộ phát sanh.
Khi thân, tâm được
trong sạch an vui triệt để, chừng ấy sẽ phát sanh Samādhisambojjhaṅga: Định
giác chi, nghĩa là sự an trụ của tâm là nhân sanh giác ngộ.
Này các thầy tỳ-khưu,
khi mà tâm được hoàn toàn an trụ thì sẽ phát sanh Upekkhāsambojjhaṅga: Xả giác
chi, nghĩa là sự bỏ hết mọi việc còn có tánh cách luân hồi trong tam giới; là
nhân giác ngộ phát sanh [15].
Theo bài kinh
Sampannasīlasutta trong Pathamavagga, đức Phật có dạy rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu!
Được thấy, được gặp các vị tỳ-khưu ấy, được hầu cận các vị tỳ-khưu ấy, được ngồi
gần các vị tỳ-khưu ấy, được xuất gia theo các thầy tỳ-khưu ấy, Như Lai gọi là
được rất nhiều sự lợi ích. Tại sao vậy? Vì khi thân thiện, vào hầu, vào ngồi gần
các vị tỳ-khưu có đức hạnh thanh cao ấy - thì làm cho giới đức của ta chưa
trong sạch trở nên trong sạch, thiền định chưa thâm sâu trở nên thâm sâu, trí
tuệ chưa viên mãn sẽ được viên mãn, giải thoát chưa hoàn toàn lại được hoàn
toàn, giải thoát tri kiến chưa rốt ráo lại trở nên rốt ráo”.
Theo những lời giảng
giải trên, ta hiểu: Được gặp, được thấy các bậc sa-môn như vậy mới cao thượng,
mới gọi là nết hạnh được thấy, được gặp các bậc sa-môn. Được thấy và được gặp
các bậc sa-môn bằng tuệ nhãn như vậy mới hoàn toàn cao thượng và tuyệt đối.
+
Thấy bằng tuệ nhãn có sáu điều thù thắng:
1. Thấy rõ thánh
pháp của các bậc thánh nhơn là: Dùng minh sát tuệ để thấy thập nhị duyên khởi
và đạo quả.
2. Thấy rõ đặc ân
của thánh pháp là giới, định, tuệ và đạo quả.
3. Đạt được các
pháp mà các bậc thánh nhân đã đắc: Định tuệ và đạo quả.
4. Đã thành thánh
nhơn bởi hành minh sát tuệ thuần thục.
5. Thấy biết rõ sự
thật của Niết-bàn.
6. Đắc được lục
thông.
+
Được thấy, được gặp các bậc sa-môn sẽ được những hạnh phúc là:
1. Được làm phước
thiện
2. Thất bồ-đề phần
phát sanh.
3. Được xuất gia theo các ngài.
5. Mắt không bị mây mù vô minh che ám.
6. Không phóng dật, dễ duôi.
7. Được cúng dường Tam Bảo.
8. Giải thoát khỏi phiền não.
9. Được đến nơi vô sanh bất diệt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét