HẠNH PHÚC XXVI
Kālena dhammassavanaṃ : Nết hạnh tùy
thời nghe pháp
(Đúng thời nghe chánh pháp)
Xét lời dạy
của đức Thế Tôn, chúng ta thấy ngài rất quan tâm đến tín đồ, nên ngài dạy: “Tuỳ thời nghe pháp”; vì hễ người còn được nghe pháp, thì
còn có người hành theo thiện pháp và do đó, Phật pháp sẽ trường tồn. Đức Thế
Tôn còn dạy những ngày trong tháng, thiện tín nên hội lại để nghe pháp, đó là
mùng tám, rằm, hai mươi ba và ba mươi. Nếu tháng thiếu là ngày hai mươi chín.
+ Thời
giờ nhứt định của sự nghe pháp có hai phần:
1.
Buddhapaññatti [11]: Là những học giới mà đức Phật đã chế định, ấy là luật. Những ngày kể
trên chư tăng hội lại để nghe những điều học, học giới.
2. Buddhavāda: Lời giáo huấn của đức Phật. Đây là những
thời nghe pháp không nhứt định ngày; nghĩa là khi nào có dịp làm phước ở nơi
nào, thí chủ cầu xin đức Phật bố thí pháp cho. Nếu không có đức Phật thì họ yêu
cầu chư đại đức thuyết pháp. Trong trường hợp nầy, nguyên nhân nghe pháp là: Vì
tâm thí chủ bị phiền não nhiễu nhương muốn tìm phương pháp sửa trị, nên thỉnh đức
Phật thuyết pháp; hay sau này khi đức Phật nhập diệt rồi, Phật tử thưa thỉnh
chư thánh hay phàm tăng thuyết pháp.
+ Trong
tạng kinh, đức Thế Tôn dạy thời giờ đem sự hạnh phúc cho chúng sanh có 4 “tùy
thời”:
1. Tùy thời
nghe pháp.
2. Tùy thời vấn
đạo.
3. Tùy thời
thuyết pháp.
4. Tùy thời
hành minh sát tuệ.
* Nghe thuyết
pháp - có ba hạng khác nhau sau đây:
(1)
Nghe thuyết pháp để lấy phước.
Hạng người nầy
nghe nói đi nghe thuyết pháp có phước lớn, họ liền đi theo để nghe, khi nghe chỉ
là nghe thôi chớ không thấu hiểu giáo lý. Hoặc họ là người đang say rượu phát
tâm trong sạch vào nghe pháp, khi nghe không hiểu gì hết. Tuy vậy không phải là
vô ích, vẫn được phước như thường, chỉ có điều là không được trí tuệ, nghĩa là
không hiểu ý nghĩa của pháp để hành theo thôi.
Sau đây là sự
tích về hạnh nghe pháp:
“- Trong thời kỳ
đức Phật Kakusandha có một con gà mái ở gần nơi cư ngụ của chư tăng. Thường
ngày gà được nghe tiếng thuyết đạo, vấn đạo và đọc kinh của chư tăng lấy làm
vui tai thích nghe. Sau lại, gà bị chủ giết để ăn thịt. Nhờ quả báo của sự nghe
kinh ấy nên gà được sanh làm công chúa tên Uppharī, sau đó trong sạch xuất gia
theo ngoại đạo. Ngày nọ, trong khi đi cầu, bà trông thấy bọ dòi lúc nhúc đang
giành nhau ăn phẩn trong cầu. Lấy làm chán nản, bà thấy đám bọ dòi ấy ví như
chúng sanh, đang tranh giành nhau miếng mồi danh lợi - mà những miếng mồi ấy -
là đồ rất bẩn thỉu, là vật rất nhờm gớm mà các bậc thánh nhơn hằng chê bỏ không
khi nào ngó đến. Bà giữ được đề mục quán tưởng ấy, đắc định, được sanh vào cõi
phạm thiên. Từ cõi phạm thiên, hết năng lực thiền định, bà sanh làm con của một
người trưởng giả; hết kiếp con của trưởng giả lại sanh làm heo ở thành Xá Vệ.
Khi trông thấy đức Thế Tôn, heo phát tâm trong sạch; nhờ quả ấy nên sanh lại
làm con gái ở xứ Suvaṇṇaphuma. Rồi kiếp chót bà được sanh làm nàng Sumanā ở xứ
Anuruddhapūrī. Kể từ kiếp gà đến kiếp ấy là hai mươi mốt kiếp. Khi ấy có vị đại
đức tên là Mahātula ở chùa Koti trên núi, thấy cô Sumanā, ngài mới nói vị các vị
tỳ-khưu rằng: “Các thầy hãy coi kìa! Con heo ấy đã sanh lại rồi, và lại được
làm vợ của vị đại thần.” Nhờ sự nhắc nhở ấy, bà nhớ lại tiền kiếp, nên bà xin
chồng cho phép xuất gia. Sau khi xuất gia xong, bà cố hết sức hành minh sát tuệ
nên đắc Tu-đa-hoàn quả, sau đắc A-la-hán”.
Theo chuyện nầy,
việc nghe pháp đem lại hạnh phúc cao thượng đến cho ta
, mặc dầu nghe,
nhưng không thấu triệt pháp bảo, cũng có quả báo rất là cao thượng, mà cũng là
duyên lành để ta đắc được đạo quả sau nầy.
(2) Nghe pháp để
tìm hiểu lý lẽ của pháp. Ý nói người nghe pháp để hết tâm trí vào sự nghe, tâm
không vọng động, không xao lãng - hầu đạt thông lý lẽ cao sâu mầu nhiệm của
pháp. Người ấy sẽ đạt được nhiều lợi ích - như sự tích của thầy tỳ-khưu trẻ tuổi
sau đây:
“- Có một thầy
tỳ-khưu nghe tin một vị đại đức thuyết về sự tích Vessantara trong túc sanh
truyện. Trong tích ấy có cả thảy một ngàn câu kệ. Từ chùa, thầy tỳ-khưu đi tới
nơi thuyết pháp xa một do tuần (16 cây số ngàn) nhưng ông cũng ráng đi đến để
nghe. Vì sự cố gắng đi hàng mười sáu cây số ngàn, nên mệt mỏi, ông không thể
thuộc hết ngàn câu kệ, chỉ thuộc được đoạn đầu và đoạn sau. Ông rất tiếc nên
khóc. Có một thiện nam thấy vậy, bèn hỏi han tự sự. Sau khi nghe hiểu, người
thiện nam ấy mới vào hầu vị đại đức và thuật lại câu chuyện thương tâm của vị tỳ-khưu
trẻ. Động mối bi tâm, vị đại đức mới nói rằng: Thôi được rồi, đợi khi nào ông ấy
trở lại đây, ta sẽ thuyết lại cho mà nghe, mà học!”
Sáng ngày đại đức
kể lại truyện tích Vessantara, vị tỳ-khưu trẻ tuổi nghe thuộc nằm lòng, cảm xúc
sâu sắc gương bố thí cao thượng của Bồ Tát - phát sanh tâm tịnh tín bất động, đắc
quả Tu-đà-hoàn”.
Trong tích nầy
ta thấy rằng nghe pháp như vậy mới thực là nghe, mới là nhân đem lợi ích hạnh
phúc cao thượng đến cho chúng ta.
(3) Nghe pháp để hành theo. Ý
nói người nghe pháp nhớ những pháp ấy rồi hành theo pháp. Người ấy sẽ được an
vui trong kiếp nầy và vị lai.
Đức Thế Tôn có dạy rằng: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Người nào
kinh sợ luân hồi, khổ - khi nghe pháp, làm sao cho pháp ấy thấm nhuần vào xương
tủy, tâm tư; cố gom tâm lại, tụ lại - chỉ còn có pháp mà thôi; khi ấy năm pháp
trở ngại (nīvaraṇa) [12] của
các vị ấy sẽ lắng yên và bảy pháp bồ-đề [13] phát
sanh đầy đủ - đó là quả của sự nghe pháp”.
+ Sự nghe pháp cố 4 điều lợi:
3. Sabba cetasā manā haritvā [16]: Thu
thúc tâm lại, không để tâm phóng túng, để tâm vào pháp đang nghe làm cho tâm được
an định.
4. Ohitasota: Để
tâm nghe thật sự.
+ Quả báo của nghe pháp là:
1. Nghe được những điều chưa từng nghe.
2. Làm cho tâm ghi nhớ và tìm hiểu sâu thêm
pháp của mình đã nghe rồi.
3. Diệt bỏ được những sự nghi ngờ.
4. Làm cho trở nên người có chánh kiến.
5. Nghe pháp làm cho tâm được trong sạch.
+ Sự nghe pháp đem lại những hạnh phúc là:
1. Là đại phước.
2. Được nghe pháp mà chưa từng nghe.
3. Hiểu được pháp đã nghe rồi.
4. Diệt được sự nghi ngờ.
5. Trở thành chánh kiến.
6. Tâm trong sạch.
7. Diệt được ba điều suy nghĩ xấu xa
là: Suy nghĩ trong trần dục, suy nghĩ làm hại người, suy nghĩ cột oan trái [17].
8. Trở nên người trí thức.
9. Là duyên lành dành về ngày vị lai.
10. Là nhân diệt
phiền não.
11. Là nhân làm
cho ta mau đắc đạo quả.
12. Là nhân làm
cho ta đắc được thất bồ-đề phần.
13. Làm cho trí tuệ
và trí nhớ tăng trưởng.
14. Giữ được phẩm
hạnh của bậc trí thức.
15. Làm cho thân
tâm được an vui thơ thới.
16. Làm cho giải
thoát khỏi luân hồi.
[1] Thường thì chư tỳ-khưu đi chân đất -
nhưng có trường hợp các vị hành đạo hoặc du hóa ở các xứ có đá tai mèo lởm
chởm, chỗ nhiều gai góc... thì đức Phật cho phép mang các loại dép bện bằng cỏ,
lau sậy, da vỏ cây...
[2] Cách giải thích của pháp sư được lấy ý
từ Duy Thức (tiền đại thừa) khi luận này định nghĩa về pháp: Nhậm trì tự tánh,
quỹ sanh vật giải. Có nghĩa là, pháp tự nó duy trì, bảo nhậm tính chất riêng của
mình - từ đó, nó sanh ra những quy phạm, mẫu mực, phép tắc có thể lý giải mọi
vật, mọi hiện tượng. Theo Theravāda thì pháp ấy là sự thật, là chân lý; pháp ấy
có 5 đức tính: Thiết thực hiện tại (nơi sự sống đang là), vượt thời gian (không
quy định trong thời gian), đến để mà thấy (quay đầu là bờ), có khả năng hướng
thượng(chánh niệm trên đất thực), tự giác hiểu trong tâm.
[9] Pubbakārī: Hành động trước, người làm
trước (Tất cả sự giải thích của pháp sư - đều có tính chất triển khai, thường
đi xa nội hàm của ngữ nghĩa).
[10] Giải thích cho rõ: Các pháp phát sanh
là do định luật duyên khởi; chính vì định luật tùy thuộc phát sanh này ( Tập
đế) mà có sanh lão bệnh tử sầu bi ưu não - và đây là sự thật về khổ (Khổ đế).
Do bởi một nhân là ái dục. Và nguyên lý để diệt tắt nhân ấy (Diệt đế) - chính
là bát chánh đạo (Đạo đế).
[11] Paññatti: Nghĩa theo Abhidhamma thường
được hiểu là mô tả, khái niệm - nhưng theo kinh và luật nó có nhiều nghĩa: Chỉ
định, đặt tên, quan niệm, ý tưởng, lệ luật - ngữ cảnh của câu này, có nghĩa là
chế định những giới điều, những học giới.
[12] 5 pháp cái, 5 triền cái - tức là 5 pháp
quấn, vấn (triền), che lấp tâm trí (cái) - đấy là: Hôn trầm, thụy miên; nghi,
sân, phóng tâm, dục.
[14] Giống như chú thích 89 - từ Pāḷi ở đây
không có nghĩa như vậy - do Atthi là có, được và Katvā, nghĩa là đã làm (động
từ Karoti).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét