KỆ NGÔN IV
HẠNH PHÚC XI
Mātā-pitu upaṭṭhānaṃ: Nết hạnh phụng
dưỡng mẹ cha
(Hiếu thuận bậc sinh thành)
Những lời Phật dạy trong 38 điều hạnh phúc được phân ra từng giai đoạn:
Mười pháp hạnh
phúc đầu tiên, từ I tới X dạy ta tự sửa chữa và lo cho bản thân trở nên lành tốt
hơn để tạo lấy một số vốn cho mình. Hạnh phúc thứ XI trở đi, dạy ta những pháp
để biểu tỏ, biểu hiện nết hạnh tốt của mình ra ngoài bản thân. Những nết hạnh tốt
đó, đức Phật đã dạy trong câu kệ thứ tư như vầy:
“- Mātā-pitu upaṭṭhānaṃ
Putta-dārassa saṅgaho
Anākulāca kammantā
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ”.
(Hiếu thuận bậc sinh thành
Dưỡng dục vợ và con
Sở hành theo nghiệp chánh
Nghĩa là: Nết hạnh phụng sự mẹ cha. Nết
hạnh tiếp độ con và vợ. Nết hạnh làm những điều vô tội. Đây là ba điều hạnh
phúc cao thượng.
3 điều trong
câu kệ nầy dạy ta đem an vui đến cho những người ở ngoài bản thân ta, ở chung
quanh ta trước sau có thứ tự, từ người nào gần ta hơn hết trước, rồi mới đến
người ở xa ta sau. Mà ai là người gần nhứt? Gần ta nhứt, một là
mẹ hai là cha, ba là con, bốn là vợ.
Trong điều hạnh phúc XI nầy, vô tình hay hữu ý mà đức Phật sắp xếp những
người thân của ta theo thứ tự là mẹ, cha, con, rồi mới vợ?
Tại sao đức Phật lại sắp mẹ trước cha? Con trước vợ? Có phải là vì mẹ đối với
con có công ơn lớn hơn nhiều so với cha hay không?
Vấn đề nầy thường gây ra tranh cãi, tranh biện giữa các tín đồ. Có người
cho rằng, mẹ có công ơn lớn hơn cha, vì mang nặng đẻ đau; lại còn có công dưỡng
nuôi bú mớm và chăm sóc con cái nhiều hơn cha. Hơn nữa, khi đức Thế Tôn còn tại
thế là thời kỳ phụ hệ, mà ngài lại không kể ơn cha trước ơn mẹ, thì đủ thấy rằng,
theo ngài, thì mẹ có nhiều công đức hơn cha! Vì vậy cho nên ngài mới thuyết
pháp hằng ba tháng và thuyết toàn những pháp có ý nghĩa cao siêu, mà ta gọi là
tạng Luận [ii] để độ Phật Mẫu.
Có người lại bảo rằng, cha có công đức nhiều hơn, vì nếu không có cha thì
không có mẹ và cả không có con! Bằng chứng hiển nhiên là thái độ của đức Phật đối
với phụ vương ngài. Lúc đức Thế Tôn biết phụ vương bệnh nặng sắp thăng hà, ngài
ngự về thành thuyết pháp luôn 7 ngày đêm để độ phụ vương đắc A-la-hán quả; và
sau đó, chính tự tay ngài tẩm liệm phụ vương và kề vai khiêng quan tài khi đưa
ra làm lễ trà-tỳ.
Hai lập luận trên đây đều có lý, nhưng sự thật không có đoạn kinh nào đức
Thế Tôn dạy rằng một vị nào trong hai vị đó có ơn nhiều hơn hay ít hơn; mà là bằng
nhau cũng không nghe nói đến!
Nguyên trước khi đức Phật thuyết pháp độ hai đấng sinh thành, ngài đều dùng
trí tuệ quan sát để hiểu rõ căn, cơ cũng như duyên lành của mỗi vị. Ngài biết rằng,
Phật mẫu phải nghe pháp ấy mới đắc quả, mà chỉ là quả Tu-đà-hườn thôi. Lại nữa,
chư thiên đồng đến thính pháp trong lúc ấy, do họ có thân sắc tế vi, các trạng
thái tâm tế nhị - nên đức Phật phải thuyết tạng Abhidhamma mới đúng căn cơ của
họ, mới có hiệu quả. Còn đối với phụ vương, sở dĩ đức Phật đợi vua cha khi gần
thăng hà ngài mới thuyết một
ngàn câu kệ ròng rã bảy ngày đêm[iii] hầu độ cha đắc quả A-la-hán, mà không thuyết
pháp cho cha nghe trước khi ấy - vì vốn bậc Điều Ngự trượng phu, ngài biết rõ
cơ duyên nào giúp đức Tịnh Phạn vương đắc quả! Nếu không đúng lúc, đúng thời
thì dầu có thuyết đến hàng triệu câu kệ cũng bằng thừa, nên đức Phật đợi đến
khi duyên lành chín muồi rồi ngài mới thuyết.
Nói tóm lại, không phải vì thuyết pháp nhiều hay ít, cao hay thấp mà bảo đức
Phật đo lường công ơn của cha mẹ. Dầu độ cha hay mẹ, ngài cũng rất hết lòng làm
tròn phận sự của mình. Ngay đối với chúng sanh, nếu ai có duyên, ngài cũng
không thối chí ngã lòng - chẳng hạn như tên sát nhân hung tàn nhứt trong thời kỳ
ấy, tên Aṇgulimāla (Vô Não) đã rượt ngài cả ba do tuần để giết, mà
ngài vẫn độ cho kỳ được. Tâm của đức Phật đối với chúng sanh rất bình đẳng,
không hề phân biệt thân, thù; ngài chỉ do nơi căn cơ và duyên lành của họ mà tế
độ thôi.
Đến đây, người ta có thể hỏi: Vậy tại sao đức Thế Tôn lại dạy phụng sự mẹ,
cha?
Như tôi đã nói trên kia, là ta nên đem lợi ích cho người nào gần ta hơn hết.
Chắc chắn ai cũng công nhận rằng, ta là người gần mẹ nhiều hơn hết, hay ngược lại,
mẹ ta là người gần ta hơn ai hết. Bảo rằng ta gần mẹ, không phải ta mặc nhiên
khẳng định công mẹ lớn hơn công cha. Nhưng người gần mình nhứt, là người mà
mình có nhiều dịp giúp đỡ nhất. Theo ý đức Thế Tôn dạy thì không phân biệt công
ơn của hai vị mà tùy trường hợp nào có thể giúp thì giúp lập tức.
Phận sự làm con phải biết công ơn cha mẹ và lo đền đáp đó là con đường đi của
các bậc thánh nhơn, của Đức Phật. Đức Phật có dạy rằng, hiếu thảo là con đường
đi của các bậc bồ-tát.
Trong một kiếp nọ, đức Phật sanh làm đạo sĩ có tên Sonapaṇḍita, ngài có dạy
cho một vị vua về sự hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Ngài dạy toàn bằng kệ
ngôn, câu kệ nầy trong bộ Túc sanh truyện gọi là Sonananda, đại lược như sau: “Cha, mẹ hy sinh tất cả các sự hạnh
phúc cho con. Khi bà mẹ biết rằng, trong mình thọ thai, chưa biết mặt con ra
sao, trai hay gái, nhưng lòng vẫn băn khoăn lo sợ, hằng van vái thai bào được
bình an. Như vậy cũng vẫn chưa vừa lòng, bà còn đi coi bói cho biết con trai
hay con gái rồi coi năm tháng ngày sanh có tốt không; lại còn tìm hỏi các bậc
lão thành coi khi có thai phải kiêng cử những gì, ước mong và cầu khẩn xin cho
sanh quí tử”.
Những điều làm khổ cho cha mẹ nhứt là bệnh ốm nghén. Bệnh ốm nghén là bệnh
rất lạ, khiến thèm những món ăn mà khi chưa có thai thường không thích.
Tôi xin nhắc lại chuyện ốm nghén của hoàng hậu đức vua Bình-sa vương (Bimbisāra),khi có thai thái tử
A-xà-thế (Ajātasatthu). Bà thèm uống máu của vua, và vì biết sự
thèm muốn ấy là xấu xa, bất thiện nên không dám nói ra đến đỗi sinh ra ốm gầy,
suy nhược. Đức vua thấy thế, phán hỏi nhiều lần bà mới dám nói ra sự thật. Vị
vua hào sảng, thương vợ thương con này chẳng lấy thế làm điều, liền rút gươm
đang đeo bên mình, xẻ chút bắp vế cho ra huyết để vợ uống. Từ đó bà mới không
còn thèm uống máu nhà vua nữa. Tin nầy thấu đến tai triều thần, các thầy
bà-la-môn đoán điềm, biết rằng, sau nầy thái tử sẽ giết vua, nên họ khuyên vua
nên giết đi hay đem quăng bỏ lúc nó vừa lọt lòng. Nhưng tấm lòng cha thương con
không bờ bến, nên vua vẫn nuôi con như thường và đặt tên là “ajātasatthu”, có nghĩa làkẻ thù trước khi sanh. Đúng là sau này thái tử giết cha
và giam mẹ!
Nhắc tích nầy để quí vị thấy lòng thương con của cha mẹ không có một sức mạnh
nào có thể ngăn cản được. Vì vậy ta không thể phân biệt được công ơn của cha mẹ
ai hơn ai.
Chẳng những bà mẹ có công đức, mang nặng đẻ đau mà thôi, bà lại có thêm cái
biệt tài là biết cách nuôi dưỡng, săn sóc khi con còn nhỏ. Khi chưa biết nói mà
bà đã hiểu ý muốn của nó. Nghe con khóc lật đật bồng ẵm vào lòng vỗ về chẳng luận
ngày đêm, sớm khuya, trưa tối. Nếu dỗ không nín bà cho bú, hoặc tìm thế dỗ cho
đến khi con nín mới thôi. Vì vậy đức Phật gọi mẹ là posenti nghĩa là người phụ nữ biết vỗ về,
săn sóc, nuôi dưỡng đứa bé từ khi còn trong thai nhi đến khi lọt lòng.
Trong Majjhimanikāya có
bài kinh dạy rằng: “Nầy các thầy
tỳ-khưu! Cha mẹ là đấng có tâm rất lành đối với con. Bắt đầu từ khi vừa thọ
thai bà mẹ đã hết sức lo bảo vệ thai bào, còn ông cha thì lo thang thuốc, cả mười
tháng như vậy. Các thầy tỳ-khưu nầy! Bà mẹ hết sức lo lắng và cố gắng săn sóc
con, không nài cực nhọc, không một việc nhỏ nhen nào mà bà không quan tâm tới;
chính bà là người sang sớt máu huyết cho con, chẳng những lo cho con khi còn
trong thai, mà mãi đến khi vừa sanh ra cho đến lúc lớn khôn, mẹ và cha hằng lo
lắng, chăm sóc đến khi nào hai ông bà từ bỏ cõi đời nầy mới thôi! ”.
Mẹ và cha khi biết mình đã có con, thì hai ông bà tiết kiệm tiền của để cho
con, lắm khi vì lòng thương con mà dám làm tội ác, để có tiền nuôi con, hoặc để
dành cho con về sau. Khi nào con đi đâu về trễ, ông bà lo sợ, dựa cửa ngóng
trông, sợ con gặp tai nạn.
Vì vậy, đức Phật dạy: Cha mẹ đối với con có bốn đức, là từ, bi, hỉ và xả. Lại
có câu kệ ngôn dạy rằng: “Ubhopi
ce te brahmā pubbadevā pubbacāriyā ahuneyyati ca vuccati”. Nghĩa là: Đối với hai đấng đại ân
nhân ấy, đức Phật có ban cho bốn hồng danh là: Phạm thiên, chư thiên thuở đầu,
vị tôn sư trước nhất và cuối cùng là bậc đáng cúng dường.
* Hồng danh thứ nhứt: Phạm thiên, có nghĩa là cao quí, ý nói cha mẹ nuôi dưỡng
con được hoàn toàn không nài khó nhọc, vì cha mẹ có tứ vô lượng tâm, nghĩa là
tâm cao quí không lấy gì đo lường được. Bốn tâm ấy là mettā - từ; karuṇā - bi; muditā - hỉ;
upekkhā - xả.Bốn tâm nầy [iv] giờ phút nào cũng ở trong cha mẹ và hằng ban bố đến con,
mặc dầu con đã lớn khôn, đã nên quan to, giàu có; ví cũng như vị phạm thiên,
bao giờ cũng niệm tứ vô lượng tâm không ngừng nghỉ. Vì lẽ ấy, nên đức Phật mới
cho cha mẹ hồng danh là phạm thiên.
Bốn tâm vô lượng ấy phát sanh đến cha mẹ từ bao giờ?
Tâm từ phát sanh đến cha mẹ, kể từ khi bà mẹ biết mình thọ thai. Ngày từ khi ấy,
cha mẹ lo lắng mong thấy mặt con, muốn biết coi con ấy là trai hay gái, đẹp hay
xấu, có tật bệnh gì không. Hằng mong cho con được an vui, mát mẻ, sức khỏe tốt.
Suy tư như thế gọi là tâm từ đã phát sanh.
Tâm bi có, từ khi bà mẹ vừa sanh con ra khỏi lòng. Mặc dầu trong khi ấy mẹ còn đau
đớn cực nhọc, nhưng khi nghe tiếng con khóc, mẹ xót thương cho con, lo nghĩ đến
con, thương con và lo sợ cho sức khỏe của con. Lòng mẹ cha thương con với tâm
bi mẫn ấy thật không bờ bến nào mà kể cho xiết. Chính tấm lòng xót thương ấy
chính là biểu hiện của tâm bi.
Tâm hỉ có, từ khi con vừa biết đi đứng cho đến khi lập gia đình, đến khi cha mẹ chết.
Cha mẹ thấy con càng an vui càng mừng và càng cầu nguyện cho con thêm, không
bao giờ cha mẹ biết ganh tị với con về hạnh phúc của con. Mặc dầu con có nuôi
cha mẹ hay không, cha mẹ cũng không đòi hỏi và cũng không than van phiền trách.
Chính sự mừng vui với con này là trạng thái của tâm hỷ.
Tâm xả phát sanh lên, khi con khôn lớn có gia đình giàu hay nghèo chẳng hạn, mà
không lo phụng sự hoặc giúp đỡ cha mẹ, cha mẹ cũng không bao giờ buồn và không
đòi hỏi chi ở con. Mặc dầu con có lầm lỗi phạm thượng cha mẹ vẫn vui lòng tha
thứ, không có oán ghét gì như người dưng kẻ lạ. Đây chính là trạng thái của tâm
xả.
* Hồng danh thứ nhì: Đức Phật gọi cha
mẹ là chư thiên thuở đầu, bởi cha mẹ là người duy nhất cố tâm đem hạnh phúc lại
cho con, không bao giờ cố chấp lỗi lầm nào của con, không muốn con mình bị tai
nạn. Thời kỳ đức Phật còn tại thế, người thời ấy chỉ biết tin ở một đấng siêu
việt có thể tiếp độ chúng sanh về thiên đàng, mà người thời ấy gọi là chư
thiên; vì lẽ ấy nên đức Phật gọi cha mẹ là chư thiên buổi đầu của con.
* Hồng danh thứ ba: Đức Phật gọi cha mẹ là vị tôn sư trước nhứt bởi cha mẹ là
thầy tổ dạy con đủ mọi việc, từ ăn, ngủ đến nhân, nghĩa, đạo đức luân thường,
trước hơn tất cả các vị tôn sư sau nầy của con.
* Hồng danh thứ tư: Đức Phật gọi mẹ là bậc đáng thọ lãnh của cúng
dường, vì chỉ có cha mẹ đáng thọ lãnh tất cả mọi vật dụng của con đem đến dâng
cúng.
Lòng thương và lo cho con của cha mẹ không bờ bến như thế nên bổn phận làm
con có phận sự phải phụng dưỡng cha mẹ cho tròn chữ hiếu. Người con nào không
lo tròn đạo hiếu, thì người ấy không phải là một người đáng làm bạn, mà cũng
không xứng đáng làm chồng hay vợ; cũng không thể làm một công dân tốt của đất
nước, của bất cứ một quốc gia nào. Con cái mà bất hiếu thì còn thua cây gậy của
cha mẹ, chẳng khác nào năm đứa con trong sự tích sau đây:
“- Theo Pháp cú kinh, thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá của trưởng
giả Cấp Cô Độc - khi ấy có một vị bà-la môn rất giàu, ông có năm người con trai
đã lập gia đình.
Sau khi vợ ông đã quá vãng, ông muốn cưới vợ bé để coi sóc gia đình, năm
con dâu nghe vậy mới bàn với năm người chồng rằng: “Nay cha đã già rồi mà còn
cưới vợ nhỏ về làm gì? Để chúng tôi thay phiên nhau săn sóc cho cha, không hơn
sao?”
Năm người con trai mới đến hầu cha, trình bày tự sự. Ông bằng lòng chia của
ra làm năm phần cho năm người con, còn ông thì ở đậu với năm con, hết đứa này đến
đứa khác. Ban đầu năm cô con dâu đối với ông rất tử tế, sau lần lần phai lợt;
sau cùng cả năm người con dâu đều bỏ ông, không lo săn sóc, trái lại còn xua đuổi
ông. Ông không thể chịu nổi cảnh hất hủi ấy nên bỏ nhà đi xin ăn ở đầu đường xó
chợ thật là khổ sở.
Ngày nọ ông gặp được một người bạn cũ, bèn thuật hoàn cảnh của ông, và xin
người bạn tìm phương cứu giúp. Người bạn đáp: “Tôi không biết phương pháp nào
giúp bạn được, vậy bạn hãy vào chùa Kỳ Viên, để chờ đấng Đại Bi là đức Thích Ca
Mâu Ni, ngài là bậc có đủ khả năng cứu vớt tất thảy mọi người cả vật chất lẫn
tinh thần”.
Đêm rằm có rất nhiều tín đồ đến nghe pháp, mà trong ấy có mặt năm người con
trai của ông bà-la-môn bị hắt hủi và cả đức vua Ba-tư-nặc (Pāsenadi). Sau khi dứt
thời pháp, tín đồ đứng lên đi ra. Ông bà-la-môn đứng lên nói: “Xin quý vị thiện
nam tín nữ và đàn-na thí chủ, hãy tạm dừng lại để cho lão bộc bạch đôi lời. Có
lẽ quí vị không quên già này, trước đây là một vị trưởng giả trong thành này.
Hôm nay, già này phải đi xin ăn. Thật ra già có con, mà con của già không bằng
cây gậy này; vì cây gậy này, già còn nhờ được để chống đi, ngừa lúc chân run,
tay yếu, hoặc để đuổi chó, đánh mèo; còn con của già, khi được chia của cho, lại
bỏ già đi xin ăn như thế này đây!”
Tín đồ, cư sĩ có mặt nơi ấy nhứt là đức vua liền hỏi ai là con ông. Ông chỉ
mặt từng người. Đức vua và công chúng rất công phẫn, muốn giết hết năm người
con bất hiếu nhưng ông xin tha tội cho. Năm đứa con ấy mới thấy lòng xả của
cha, bèn ăn năn, xin đem ông về nuôi dưỡng. Khi ông về nhà, mấy người con dâu tỏ
vẻ bất bình, nhưng năm người con trai ông nói rằng: “Nếu các người không bằng
lòng thì cứ tự tiện ra đi, chứ chúng tôi không thể đê hèn, không thể vô dụng
hơn cây gậy của cha chúng tôi được”.
Nhắc lại tích này, tôi muốn nhắc nhủ rằng, làm con không biết phụng dưỡng
cha mẹ, hay phụng dưỡng một cách miễn cưỡng còn thua các loài ăn cỏ! Và điều thứ
nhì, tôi muốn cho mọi người thấy rằng, đức Thế Tôn chẳng những cứu người khỏi
vòng trầm luân sinh tử khổ mà thôi; riêng về vật chất, tuy ngài không trực tiếp
giúp đỡ, nhưng đạo hạnh và uy tín của ngài cũng đủ sức cứu độ.
Đức Phật dạy rằng: “Các bậc trí thức đều kính trọng những người phụng dưỡng
cha mẹ; và người biết phụng dưỡng cha mẹ sẽ gặp nhiều sự an vui là do nhờ phước
quả của sự phụng dưỡng ấy”. Như sự tích Túc sanh truyện sau đây:
“- Khi xưa có một con kên kên rất hiếu thảo với cha mẹ. Cha mẹ kên kên vì
già không thấy đường, không thể đi kiếm ăn được, chỉ nhờ con đi kiếm mồi về
nuôi, và đem cỏ rác về làm tổ cho ở. Ngày nọ kên kên con đi kiếm mồi, rủi mắc
chân vào bẫy của một anh thợ săn. Kên kên khóc. Anh thợ săn thấy vậy mới hỏi:
“Người đời thường bảo rằng, kên kên có mắt rất tỏ, thấy rõ các tử thi ở rất xa,
vậy tại sao ngươi lại mắc vào bẫy của ta, ngốc thế!”
Kên kên mới nói: “Nầy anh thợ săn, có hai điều mà ai ai cũng không trông thấy
được: Một là tai nạn và hai là cái chết! Nó đến bên ta, ta cũng không trông thấy,
mặc dầu ta có mắt thấy ngàn dặm. Còn nữa, vì tâm tôi cứ mãi lo kiếm ăn để phụng
dưỡng cha mẹ mù lòa nên tôi lại càng không trông thấy cái bẫy của ông!”
Anh thợ săn nghe vậy, lấy làm kỉnh mộ và mến yêu – vì nghĩ rằng, kên kên nầy
không những có trí tuệ, biết ăn nói khôn ngoan như bậc hiền triết; lại còn có
tâm phụng hiếu cha mẹ nữa, thật đáng trân trọng - ben thả kên kên ra. Khi được
thả, kên kên lật đật kiếm mồi về nuôi cha mẹ. Kên kên ấy là tiền thân của đức
Thế Tôn.
Trong bài kinh Brāhmasutta, đức Thế Tôn có dạy với đại ý rằng: Cha mẹ là
hai đấng có công ơn vô lượng vô biên đối với con. Nếu người con nào có hiếu,
thâu phục năm châu bốn biển để cho cha mẹ cai trị, hưởng sự an lạc như thế là
cùng tột rồi - nhưng cũng chưa gọi là đáp đền được công ơn sanh dưỡng trong
muôn một. Vì người ấy chỉ lo phần vật chất cho cha mẹ, hay có thể nói là chỉ lo
cho cha mẹ kiếp hiện tại thôi. Lại nữa, dẫu đế vị, vương vị là tột đỉnh cao
sang, nhưng làm sao chạy khỏi tội lỗi, thoát khỏi nhân quả trả vay, sinh tử
luân hồi trong 6 đường khổ? Vậy, phàm người con có hiếu phải cố gắng làm sao
cho cha mẹ biết tu hành để giải thoát, hay làm sao cho cha mẹ có 4 pháp [v] này trong tâm, nghĩa là biết thực hành theo
con đường tiến hóa cao thượng:
1. Saddha: Đức tin, nghĩa là tin tam bảo, tin nghiệp.
2. Cāga: Bố thí hay dứt bỏ, tức là dứt bỏ lòng tham lam, bố thí của tiền cho người
nghèo khổ (đây là nguyên nhân
đem lộ phí theo về ngày vị lai).
3. Sīla: Trì giới, là giữ cho thân, khẩu được an tịnh, không phạm vào năm điều xấu
ác(năm giới).
4. Paññā: Trí tuệ, nghĩa là có trí tuệ để quan sát thấy thân này vô thường, khổ não
và vô ngã; tức là có tu tập minh sát tuệ để quán tưởng thấy chán ngán thân này,
không còn quyến luyến thương tiếc mọi việc thường phàm, dung tục trên cuộc đời
này nữa.
Nếu cha mẹ đã quá vãng thì bổn phận làm con nên cố gắng làm mọi việc lành,
rồi hồi hướng đến cha mẹ hằng ngày. Người con nào làm được như thế mới gọi là
con có hiếu và đáp đền được công ơn sanh dưỡng trong muôn một.
Người nào có phước mới còn cha mẹ tại tiền. Người còn có cha mẹ tại tiền
trong nhà, cũng như có chư thánh nhơn trong nhà vậy. Theo đức Thế Tôn, cha mẹ
có thể sánh với chư thánh nhơn, bởi vậy cúng dường đến cha mẹ có phước vô lượng
vô biên, cũng như cúng dường cho các bậc A-la-hán vậy.
+ Phàm người biết đáp đền công ơn cha mẹ bằng vật chất phải thực hành
như thế này:
1. Phải lo phụng dưỡng cha mẹ nào là vật thực, thuốc uống, y phục và chỗ ở (là nhà).Phải quạt nồng đắp lạnh,
sớm thăm tối viếng để xem sức khỏe của cha mẹ như thế nào hoặc hai thân có nhu
cầu gì không - cũng như khi ta còn nhỏ cha mẹ lo cho ta vậy.
2. Phải tận tình chăm nom, săn sóc cho cha mẹ khi trái gió, trở trời, lúc bệnh
hoạn, ốm đau.
3. Phải bỏ việc gia đình của mình để làm việc cho cha mẹ trước và không bao
giờ nghĩ đến việc riêng của mình khi chưa làm xong công việc của cha mẹ.
+ Đền đáp công ơn cha mẹ về tinh thần là:
1. Phải hết lòng cung kính cha mẹ không bao giờ dám nói một lời nào vô lễ
làm trái ý các vị.
2. Ráng hết sức giữ gìn thanh danh của gia đình, không để cho người đời coi
thường, khinh bỉ; hơn nữa, phải sống làm sao cho thanh danh của gia đình càng
ngày càng được mọi người quý kính, ca tụng.
3. Ráng làm cho mình ra người đáng thọ hưởng gia tài của cha mẹ để lại.
4. Khi cha mẹ ta không có đức tin với Tam Bảo, không tin tội phước, nhân quả
nghiệp báo - thì phải tự mình cố gắng thuyết phục, khuyên lơn; nếu không được
thì nên nhờ các
bậc trí thức giảng giải hộ hoặc chư tăng hay các bậc đại
đức thuyết pháp độ cha mẹ.
5. Ít lắm cũng phải làm sao thuyết phục được cha mẹ thọ tam qui, ngũ giới.
6. Dẫn dắt cha mẹ vào chùa nghe pháp, bố thí và học niệm Phật, tham thiền.
Người làm tròn được những điều trên đây mới gọi là con biết yêu thương cha
mẹ và báo đền được trong muôn một công ơn cha mẹ.
+ Phần người con biết đền đáp công ơn cha mẹ thì được những sự hạnh phúc
là:
1. Sẽ không bị mất sự lợi lạc từ vật chất cho đến tinh thần.
2. Sẽ được thoát khỏi những điều rủi ro, kinh sợ.
3. Sẽ thoát khỏi được tất cả tai nạn, họa hại.
4. Sẽ được lợi lộc do các bậc trí thức hay vua chúa ban tặng cho.
5. Sẽ được quyền cao chức lớn.
6. Hằng được sự ngợi khen của mọi người ở mọi nơi và mọi trường hợp.
7. Sẽ thoát khỏi sự ám hại của kẻ bất lương.
8. Khi có bị tai nạn cũng có chư thiên đến cứu.
9. Sau khi chết được sanh về cõi trời.
10. Sẽ được gieo duyên Niết-bàn.
11. Đi theo con đường của chư bồ-tát và chư thánh nhơn.