Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013

Tiền làm bằng gì ?

[Trích băng ghi âm từ một cuộc phỏng vấn nhanh… không tưởng]
-          Tiền có từ lúc nào hả ông?
-          Ai mà biết. Chỉ biết trong lịch sử tiền tệ có lúc thì đá được xem là “vật ngang giá” có giá trị; có lúc thì là… vỏ sò … Có điều, đá thì nặng “bà cố”; vỏ sò thì sau đó nhanh chóng… mất giá vì con người tìm ra chỗ quá trời sò.Nên lần hồi người ta chuyển đổi qua tiền bằng kim loại- như đồng chẳng hạn, rồi tiền giấy. Nước ta thời nhà Hồ [thế kỷ XV] đã biết xài tiền giấy.
-          Còn tiền pôlime ?
-          Tiền pôlime ở nước ta mới dùng chừng đôi ba năm nay. Tiền này làm bằng… nhựa nên bền hơn, chống tiền giả hiệu quả hơn tiền giấy côtông trước đó.
-          Sao độ rày tiền pô… bị kêu rêu dữ quá. Nào là đã xuất hiện tiền giả, đã bộc lộ là kém chất lượng, là đội giá thành…
-          Ấy là “bọn… thỏ” nó kêu rêu. Chứ tôi bảo đảm tiền pô 60 năm vẫn như mới. Khuyết điểm nhỏ nhặt đâu có làm thay đổi giá trị đồng tiền. 500.000 mà “dơ” một tí vẫn là 500.000 đấy thôi. Đổi chất liệu thì giá thành đội tí chút có làm sao.
-          60 năm vẫn như mới? Ông có “khuếch đại” độ bền không? Còn tiền “dơ” một tí, tôi nghe nói là người ta từ chối xài. Tiền thật mà bị từ chối xài thì còn tệ hơn tiền giả ấy chứ? Bởi tiền pô giả khó bị phát giác hơn tiền côtông, phải là chuyên gia tiền tệ thì hoạ may mới phân biệt được thật giả. Còn việc đổi chất liệu tiền, nghe nói chỉ có hai ba xứ là dùng tiền pô. Nghĩa là tiền bằng chất liệu pô không phổ biến. Ngay cả hãng bán máy in cũng đã khuyến cáo là đừng dùng máy ấy để in tiền?
-          Tôi cam đoan vẫn như mới, miễn là… đừng đưa ra lưu thông. Còn tiền thật “dám” không nhận à? Tù đấy!
-          Tiền thật mà trông tưởng… tiền giả thì người ta không nhận là phải rồi. Ông vẫn chưa trả lời hết nội dung mà độc giả nhờ hỏi.
-          Không phổ biến mà mình dùng mới chứng tỏ được… tầm cỡ của xứ ta là… hổng giống ai. Còn hãng à? Lời của bọn tư bản làm gì đáng tin?!
-          Nhưng chất lượng của tiền pô đang chứng tỏ là lời khuyến cáo của hãng ấy rất chính xác. Màu tiền pô rất dễ… bốc hơi do in trên pôlime. Dân ta lại chưa trừ được thói quen xài tiền mặt nên màu tiền càng có môi trường dễ… ô nhiễm.
-          Đồng tiền dễ hỏng thì… tập được cho người dân thói quen “nâng tiền như nâng trứng, hứng tiền như hứng hoa” chứ có hại gì. Còn tập quán cũng phải…thay đổi cho phù hợp với chất lượng đồng tiền chứ- nghĩa là nhà nhà xài thẻ tín dụng thì làm gì “đụng” đến đồng tiền, làm gì có chuyện đồng tiền bị lem, bị luốc?
-          Nghe nói ông ủng hộ hết mình cho tiền pô là vì có con cháu làm trong nghề… in tiền?
-          Lại là việc “sống thì bắt thỏ, thỏ kêu rêu”*… Chúng thấy tôi đang tại chức nên… tức tối mà vu oan giá hoạ cho tôi… mất ghế đấy. Để tôi “tham mưu… cắt”tiền vài lần thì chúng… im miệng ngay. Thật đấy!
-          Vậy mà thiên hạ nói ông in tiền bằng… tình nên mới chọn chất liệu “phù hợp”.
-          Bọn “điêu dân” nói càn.
-          Chúng còn nói: “Đừng hỏi ông in tiền bằng gì nữa mà hãy hỏi ông in tiền ở đâu?” Ý nói là ông in tiền ở … nhà ông đấy.
-          …
[Đến đây thì ông này không chịu trả lời nữa nên cuộc phỏng vấn… không có khúc đuôi].
* Bài thơ Vịnh con chó chết trôi của Học Lạc [1842- 1915, người Mỹ Tho].

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Lê Lai "kỳ cục án"

Lê Lai “Kỳ cục án”


Lê Lai là nhân vật lịch sử. Thế nhưng quanh chuyện “Lê Lai liều mình cứu chúa” Lê Lợi và cái chết của vị Kỷ Tín [*] thời Hậu Lê này lại hình như có gì đó không được rõ...
Cái sự không rõ ấy là có việc “...cứu chúa” không? Và: có mấy Lê Lai khi Lê Lợi mở Hội thề Lũng Nhai [**]?

Từ sự hy sinh rõ ràng...

Lam Sơn thực lục [viết tắt là Thực lục, 1], truyền rằng do Nguyễn Trãi soạn năm 1431, Lê Thái tổ [Lê Lợi] đề tựa, viết về giai đoạn này như sau: Năm Mậu Tuất (1418) khi ấy Nhà vua ba mươi ba tuổi, khởi quân nghĩa ở Lam Sơn [...] quân ta chỉ mới được nhỏ, mà thế giặc đương mạnh, vua bèn vời các tướng bảo: - Ai có thể thay mặc áo vàng của Trẫm, lĩnh năm trăm quân, hai thớt voi, đánh vào thành Tây Đô. Thấy giặc ra đối địch, thì tự xưng tên: "Ta là chúa Lam Sơn đây!" Để cho giặc bắt? Cho ta được náu mình, nghỉ binh, thu họp cả quân sĩ, để mưu tính việc về sau?
Các tướng đều không dám nhận lời. Chỉ có Lê Lai thưa: - Tôi bằng lòng xin thay, mặc áo Nhà vua. Ngày sau bệ hạ gây nên đế nghiệp, có được thiên hạ, thương đến công tôi, cho con cháu muôn đời được chịu ơn nước. Đó là điều tôi mong mỏi!
Nhà vua lạy Trời mà khấn: - Lê Lai có công thay đổi áo. Sau này Trẫm cùng con cháu, và các tướng tá, hay con cháu các công thần, nếu không thương đến công ấy, thì xin đền đài hóa ra rừng núi; ấn vàng hóa ra đồng sắt; gươm thần hóa ra đao binh!
Vua khấn xong, Lê Lai liền đem quân, phi vào giữa trận giặc, thét: - Ta đây là chúa Lam Sơn!
Giặc bèn xúm lại vây, bắt về thành, xử bằng hình phạt cực ác, những tội thường không thể sánh!

Bộ Đại Việt thông sử [viết tắt là Thông sử, 2] của Lê Quý Đôn soạn năm 1759, chép không có lời hứa của Lê Lợi, chỉ nói “...bởi thế Hoàng đế không địch nổi, thua trận phải chạy vào Mang Một (nay là Mang Chánh), rồi lần đến Trịnh Cao, giáp giới nước Ai Lao, nơi đây, dân thưa lương ít, trên đường không người đi lại. Đóng ở Mang Cốc trong núi hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư lương (thứ phấn hồng trong đá) làm bữa ăn, rất là khốn đốn! Hoàng đế bèn hỏi các tướng: "Có ai dám bắt chước việc Kỷ Tín thời xưa không?" Người ở thôn Ðặng Tú là Lê Lai khẳng khái vâng mệnh, tự nguyện mặc áo bào nhà vua, xưng là vua Lê Lam Sơn, dẫn quân ra đánh nhau với quân Minh, quân Minh mừng rỡ, liền dồn cả quân vây chặt Lê Lai, Lai chống cự đến kiệt sức thì bị bắt, quân Minh dẫn Lai về thành Đông Quan giết chết, chúng bèn lui binh, ta được thoát nạn”.

Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục [viết tắt là Cương mục, 3] của Quốc sử quán Triều Nguyễn soạn trong khoảng năm 1856-1881cũng ghi  nhận nhưng chép rõ hơn là sự việc xảy ra vào năm thứ hai của Bình Định vương- Kỷ Hợi 1419 chứ không phải năm đầu khởi nghĩa. Ở đoạn Lê Lợi đã trở thành Lê Thái tổ, Cương mục viết thêm:  “Kỷ Dậu, năm thứ 2 (1429) tháng 12, phong Thiếu úy Lê Lai làm Thái úy [...] Trước kia, kịp khi trong nước đã yên, nhà vua tặng phong Lê Lai là Thiếu úy Lũng Nhai công thần. Đến đây, lại tặng phong thêm chức Thái úy, sai Lê Trãi [***] chép lời thề nguyền của nhà vua cất vào trong hòm bằng vàng để tỏ ý ghi nhớ không quên”.

...đến cái chết đầy nghi vấn

Một vài sách sử sau đó chỉ chép hoặc theo Thực lục hoặc theo Thông sử, Cương mục. Thế nhưng Bộ sử chính của thời Hậu Lê- Đại Việt sử ký toàn thư [viết tắt là Toàn thư, 4] truyền rằng do Ngô Sĩ Liên... vâng mệnh Lê Thánh Tông nối soạn, khi ghi lại những thời điểm trên lại rất... mơ hồ:Mậu Tuất, [1418], tháng giêng, ngày 13, bọn nội quan nhà Minh là Mã Kỳ quả nhiên đến. Vua tung hết quân mai phục xông ra đánh giặc. Cháu vua (có sách chép là con vua, Minh sử chép là em vua) là Lê Thạch cùng các tướng Đinh Bồ, Lê Ngân, Lê Lý... dẫn đầu xông vào trận giặc, chém được hơn 3.000 thủ cấp, thu được hàng ngàn quân tư, khí giới, rồi dời quân đến núi Chí Linh[****].
Ngày 16, tên phản bội Ái (không rõ họ) dẫn đường cho giặc đi lối tắt, đánh úp đằng sau vua, bắt mất gia thuộc của vua và rất nhiều vợ con của quân dân. Quân sĩ dần dần chán nản bỏ đi. Vua cùng bọn Lê Lễ, Lê Náo, Lê Bí, Lê Xí, Lê Đạp bí mật nương náu ở trên núi. Tháng 2, vua hết lương, không còn gì nổi lửa. Gặp khi giặc lui quân, bèn về đắp thành đất ở Lam Sơn.
Tháng 9, Tổng binh nhà Minh là Lý Bân đem quân tới sùng lục. Vua đặt quân mai phục ở Mường Một[*****], dùng tên thuốc độc bắn giặc chết và bị thương quá nửa. Bân thua rút quân về”... Không có một chữ một dòng nào về sự việc Lê Lai cứu chúa.
Đến đoạn sau,  năm Đinh Mùi, [1427, trước khi Lê Lợi lên ngôi một năm], Toàn thư lại viết: “...Tháng Giêng, bọn Lê Lựu, Lê Bôi ngày đêm đánh gấp thành Khâu Ôn. Quân Minh tự lượng chống đỡ không nổi, đang đêm bỏ thành chạy trốn[...] Giết Tư mã Lê Lai [người viết nhấn mạnh], tịch thu gia sản, vì Lai cậy có chiến công, nói năng khinh mạn. Chém Thiên hộ Lý Vân và tòng nhân Bùi Vĩnh vì chở trộm mắm muối vào thành Chí Linh[*1]”...

Về sự việc này, Cương mục, Thực lục không thấy chép. Thông sử của Lê Quý Đôn thì ghi “...Viên Tư mã là Lê...[ Chính bản chỉ chép một chữ "Lê" (họ Lê) mà bên dưới bỏ trắng khoảng một chữ. Vậy không biết viên này tên là gì ?] cậy có chiến công thường thốt ra những lời khinh nhờn. Hoàng đế sai giết chết, và tịch thu gia sản. Viên Thiên hộ là Lý Vân và tòng nhân là Bùi Vĩnh, lấy trộm muối chở vào thành Chí Linh, ngài cũng sai giết cả. Và đều bị tịch thu gia sản”...
Còn việc truy phong, truy tặng Lê Lai, chỉ có Cương mục chép [đoạn trên], Toàn thư, Thực lục [*2], Thông sử không thấy nói đến. Toàn thư và Thông sử đều chỉ đề cập đến việc truy tặng cho Lê Thạch [Cháu vua, có sách chép là con vua, Minh sử chép là em vua] làm Trung Vũ Đại vương, đưa vào thờ ở tẩm miếu...

Có nhiều Lê Lai?
Đã từng có ý kiến [*3] cho rằng thời Lê Lợi có đến mấy...Lê Lai, nêu “Năm 1428, khi Lê Lợi lên ngôi vua, ông [Lê Lai]được truy tặng làSùng trung Đồng đức hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần”, hàm thiếu uý, thuỵ là Toàn Nghĩa. Năm sau, Thái tổ sai Nguyễn Trãi viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của ông bỏ vào trong hòm vàng. Các đời vua sau tiếp tục phong tặng cho ông, cao nhất là năm 1484, Lê Thánh Tông gia phong ông làm Trung Túc vương [...]” rồi dẫn theo sách “Võ tướng Thanh Hoá trong lịch sử dân tộc”, sử sách, văn bia còn để lại một số nghi vấn về những nhân vật khác cũng có tên Lê Lai sống cùng thời khởi nghĩa Lam Sơn.
Theo đó, sách Lam Sơn thực lục tục biên nêu trường hợp Nguyễn Thận người Mục Sơn (Thọ Xuân, Thanh Hoá) là công thần khởi nghĩa Lam Sơn, được đổi sang họ Lê và tên Lai. Sách có đề cập đến một Lê Lai liều mình cứu chúa bị tử trận và sau đó nhân vật Nguyễn Thận này vẫn tiếp tục hoạt động. Như vậy đây là hai người khác nhau. Văn bia ở Quỳnh Lưu (Nghệ An) cũng đề cập đến một công thần khác của Lê Lợi cũng có tên là Lê Lai.
Một nguồn tài liệu khác lại cho rằng Lê Văn An, một công thần khác của Lê Thái Tổ cũng từng có tên là Lê Lai... Như vậy phải chăng là có đến hai ba Lê Lai? Ý kiến này để tồn nghi lại chuyện đó.
Theo người viết, ý kiến trên nêu tồn nghi là thận trọng nhưng liệu có khả năng có nhiều Lê Lai không?
Về trường hợp Nguyễn Thận được đổi tên thành Lê Lai, việc này- nếu có- phải xảy ra sau khi Lê Lợi lên ngôi và ban quốc tính họ Lê [chứ không đổi tên] cho nhiều công thần- nhất là số thuộc hạ đã cùng ông ăn thề ở Lũng Nhai. Thứ hai, nếu Thận là Lai thì sao suốt triều Hậu Lê, qua mấy đời vua cũng không thấy xuất hiện lần nào dù là trong phong quan chức?
Trường hợp Lê Văn An thì An cùng xuất hiện trong thời điểm Tư mã Lê Lai bị giết và xuất hiện sau đó khi được phong chức tước, Toàn thư, Cương mục... vẫn chép là Lê Văn An.
Tiếc là người viết chưa có điều kiện để được đọc Lam Sơn thực lục tục biên hay sách Võ tướng Thanh Hoá..., văn bia Quỳnh Lưu nên không biết cụ thể trong đó viết  gì song có lẽ giả thuyết nhiều Lê Lai quá... ít thuyết phục.

Mớ bòng bong sự thật

Chắc là chỉ có một Lê Lai. Vậy Lê Lai nào bị quân Minh giết, Lê Lai nào bị giết chép trong Toàn thư? Trả lời câu hỏi này cũng không dễ!
Thực ra, nếu nói Toàn thư hay Thông sử không chép gì về việc truy tặng cho Lê Lai là không hoàn toàn chính xác. Chỉ nên đặt vấn đề là tại sao các sử này không chép cụ thể như Cương mục thì đúng hơn. Bởi dù có chép khác nhau song Tư mã Lê Lai  hay Tư mã Lê... vẫn đã là một cách viết... truy. Tư mã là một trong ba chức quan cao nhất thời xưa: Tam công. Tam công có xuất xứ từ nhà Chu, gồm thái sư, thái phó, thái bảo [tam thái]. Bắc Nguỵ thì gọi là tam sư. Đến thời Tiền Hán (Tây Hán), tam công gồm thừa tướng (sau đổi thành đại tư đồ) quản lý về hành chính, thái úy (đại tư mã) quản lý về quân sự và ngự sử đại phu (đại tư không) phụ trách giám sát. Thời Hậu Hán (Đông Hán) các chức danh này được đổi tên thành tư đồ, tư mã , tư không, còn gọi là tam tư. Về sau, với sự hình thành của lục bộ (binh, hình, hộ, lại, lễ, công) thì tam công dần trở thành các chức danh danh dự, là các cố vấn cao cấp của triều đình.
Nên nhớ, khi lên ngôi, Lê Thái tổ phong quan chức cho những thuộc tướng còn sống, không người nào đến tước Công ngay thời điểm đó. Vậy vị Lê Lai này đã lập công trạng gì mà Ngô Sĩ Liên phải hạ bút truy cho chức Tư mã. Phải là một công trạng “đỉnh thiên lập địa” cỡ “liều mình cứu chúa” mới được? Bằng chứng là Cương mục cũng từng chép Lê Thái tổ truy phong cho Lê Lai là Thái uý. Thái uý và Tư mã thực ra chỉ là một. Không thể có một Lê Lai nào khác được truy phong cao đến mức như vậy [rất nhiều khai quốc công thần khác chỉ được ban biển ngạch đến tước Hầu].
Chúng tôi ngờ rằng Toàn thư không chép việc “cứu chúa” có lẽ là do một sự thực: Sau kỳ công, Lê Lai không bị quân Minh giết mà vẫn sống cho tới lúc... bị Lê Lợi giết- một năm trước khi hoàn thành đại nghiệp đánh Minh- năm 1427, như Toàn thư đã chép. Vì sau bị giết nên không chép đoạn trước kẻo thiên hạ cho rằng vua chưa là vua mà đã “bất nhân”. Thực lục cũng chỉ viết “xử bằng hình phạt cực ác, những tội thường không thể sánh” chứ không nói gì đến cái chết của Lê Lai là do quân Minh. Thông sử chép việc “cứu chúa” quá kỹ [có lẽ là theo Thực lục vì Toàn thư không chép] nên khi chép đến đoạn bị giết phải... cho mất chữ để khỏi “đụng đến thiên đình”.
Thực lục truyền là do Lam Sơn động chủ đề tựa, Nguyễn Trãi soạn vào năm 1431- ba năm sau khi Lê Lợi làm vua. Chúng tôi ngờ rằng vị trung thần “lấy chính nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cường bạo” này viết đoạn Lê Lai... vào nhằm nhắc nhở Lê Thái tổ về lời hứa khi còn hàn vi, ở bước đường cùng với người xả thân vì mình mà nay đã ra ma. Vì vậy Lê Lai mới được truy phong và sau đó sử thần Ngô Sĩ Liên phải viết truy.
Nếu quả thực Lê Lợi có giết Lê Lai thì cũng là chuyện thường tình của những đấng làm vua, cũng giống như Hán Cao tổ Lưu Bang giết Hàn Tín, Tống Thái tổ Triệu Khuôn Dẫn giết Đơn Hùng Tín, Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương giết... vậy thôi. Và một vị vua đâu bao giờ... giết có một người? Điều đáng nói là việc Lê Lai “thế chúa” vẫn ngàn năm làm rung động lòng người trung nghĩa. Và ngày 22 tháng 8 nhuận, sao chổi mọc ở phương Tây, khi Lê Thái tổ băng, truyền rằng phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ mình “hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi” là một niềm day dứt của đấng quân vương và cũng là một cử chỉ làm tròn lời hứa của mình trước Trời Đất.






[1] Theo bản sách điện tử: Bản khắc in khi sửa lại bộ Lam Sơn thực lục, đời Lê Hy Tông, năm Vĩnh Trị 1- 1676. Bản dịch của Bảo Thần, NXB Tân Việt năm Giáp Thân 1944.
[2] Bản sách điện tử: Lê Quý Đôn. Bản dịch Lê Mạnh Liêu, Ủy ban Dịch thuật - Bộ Văn hoá Giáo dục & Thanh niên -Saigon 1973.
[3] Bản sách điện tử: Quốc sử quán Triều Nguyễn 1856-1881. Viện Sử học, NXB Giáo dục, 1998.
[4]Theo bản sách điện tử: Bản in Nội các Quan bản, mộc bản khắc in năm Chính Hoà 18- 1697. Bản dịch Viện KHXH, NXB KHXH, 1993.

[*]Hán Cao tổ Lưu Bang đóng quân ở thành Vinh Dương, bị Hạng Võ dẫn quân Sở vây chặt. Tướng quân Kỷ Tín thấy tình thế nguy cấp, dâng kế lừa Sở. Tín bèn vận mũ áo Đại vương, dùng cờ quạt xe ngựa Hoàng đế ra cửa Đông hô rằng: "Ta là Hán Vương, vì cạn hết lương thực xin ra đầu hàng nước Sở". Quân Sở bèn xúm cả vào đấy. Hán vương thừa cơ hội lẻn ra cửa Tây trốn thoát. Sau Hạng Võ biết là giả, giết chết Kỷ Tín.

[**]Lũng Nhai: tức Lũng Mi, tên nôm là làng Mé, thuộc xã Ngọc Phụng, huyện Thường Xuân. Tại đây, vào ngày đầu tháng 2 năm Bính Thân 1416 có một cuộc Hội thề lịch sử giữa Lê Lợi và 18 người chung chí hướng với ông. Những người có công lao khó nhọc ở Lũng Nhai chỉ những người đã tham gia khởi nghĩa buổi ban đầu.
[***] Nguyễn Trãi, được ban quốc tính.
[****] Núi Chí Linh: tức là núi Pù Rinh, thuộc xã Giao An, huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hoá ngày nay.
[*****] Mường Một: hay Mường Mọt, sau là xã Bất Một, thuộc huyện Thường Xuân ngày nay.
[*1] Thành Chí Linh: lúc ấy quân Minh còn đóng giữ.
[*2] Thực lục không chép, có lẽ do là bản văn ngắn không thể chi tiết đến từng chi tiết được.
[*3] Xem Bách khoa toàn thư mở.



Nhổ lông... Nhổ Cỏ

"Nhổ... lông" NHỔ CỎ
Tờ Nghề Báo số 60 (10.2007), Mục Nhổ Cỏ : "Nhà báo không thuộc bài!- Doanh Nhân Sài Gòn ngày 1/10/2007
[Xin trích nguyên văn] - "Mãi" là bán, "mại" là mua. "khuyến mãi" là khuyến khích bán hàng, còn "khuyến mại" là khuyến khích mua hàng. Vậy mà cánh nhà báo [tôi nhấn mạnh] ta cứ lẫn lộn hoài. Đáng buồn hơn là báo Doanh Nhân Sài Gòn chuyên phục vụ cho các doanh nhân mà vẫn cứ lẫn lộn kinh niên. Ví dụ: ở chuyên mục "khuyến mại" có 3 tin như sau:
- Chương trình khuyến mãi do ngân hàng Saccombank phối hợp cùng công ty Eden thực hiện.
- Trong một tháng khai trương, khách hàng được khuyến mãi "mua 1 tặng 1".
- Chương trình khuyến mãi "Hàng ngàn quà tặng, hàng ngàn niềm vui" của công ty cổ phần dệt may Thành Công.
Chuyên mục "Khuyến mại" mà tin thì toàn là "khuyến mãi".
Đồ Ngu tôi xin "bào chữa" dùm  "bị đơn" SGDN như sau:
1/- Theo Hán Việt tự điển, Thiều Chửu, Hoa Tiên 1974 Sài Gòn:
Mãi: Mua, lấy tiền đổi đồ là mãi. [trang 646]
Mại: Bán,  lấy đồ đổi lấy tiền gọi là mại như đoạn mại – bán đứt…[trang 649].

2/- Từ điển Tiếng Việt, Thanh Nghị, Khai Trí 1965 Sài Gòn:
Mãi lực dt (p. pouvoir d’ achat) Sức mua, sức tiêu thụ hàng hoá [trang 874].

3/- Từ điển Tiếng Việt, Khoa Học Xã Hội 1977 Hà Nội:
Mại dâm.- Nói những người con gái trong xã hội cũ [sic] phải bán thân mình cho khách làng chơi [trang 500].

Đồ Ngu tôi không có ý kiến gì thêm, chỉ muốn “thở dài” rằng lẽ nào “lời nói gió bay” chứ không phải là “bút sa gà chết”? Nhất là khi lời nói được in trên giấy trắng… Thôi thì ngâm thơ Lục Vân Tiên vậy: Chân mình thì lấm bê bê, lại đi xách đuốc mà… chân người…

Mua quan bán chức

MUA QUAN BÁN CHỨC
                                                                                                                           Tiểu lãn tử

Triều đại nào cũng trải qua các giai đoạn thành- thịnh- suy- huỷ. Đời vua Lê Thánh Tông (lên ngôi năm Canh Thìn 1460, ở ngôi 38 năm) có thể nói là giai đoạn cực thịnh của triều Hậu Lê. Thịnh, nên Đại Việt sử ký toàn thư khen rằng “Vua sáng lập chế độ, văn vật khả quan, mở mang đất đai, cõi bờ khá rộng, thực là bậc vua anh hùng tài lược, dẫu Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà Đường [bên Tàu, hai đời thịnh của Hán Đường] cũng không thể hơn được”. Song, dù là thịnh hay suy, triều đại nào cũng có “chuyện” của nó. Sau khi Nghi Dân giết Lê Nhân Tông để cướp ngai vàng [1], nhóm “khai quốc công thần” từng phò Lê Thái Tổ  như Nguyễn Xí, Lê Niệm… giành lại, đưa Tư Thành lên làm vua, “ơn” ấy không thể không “cám”[2]. Vì vậy, những năm đầu trên ngai vua, Thánh Tông  phải đối mặt với nhiều tệ nạn- mà… căng thẳng nhất vẫn là chuyện hối lộ, mua quan bán chức của nhóm… công thần.

“Bịt đường của hiền tài”
Chuyện hối lộ, mua quan bán chức vốn đã diễn ra… ì xèo trước đó dưới thời Nhân Tông. Trung hưng ký viết vào năm Quang Thuận [niên hiệu đầu của Thánh Tông] cho biết: “Nhân Tông mới lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc Lê Khuyển như thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu nắm quyền vị, nạn hối lộ được công khai [GX nhấn mạnh]. Việc văn giáo lặng lẽ như băng hàn, người hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho như Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy vào chỗ nhàn, phường dốt đặc ồn ào như ong đàn nổi dậy, như chó chuột nhe răng. Tể thần [danh từ để gọi các viên quan quyền cao chức trọng thứ nhất, thứ nhì trong triều] như Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chưởng binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu được bốn mùa một năm. Bậc lương thần như Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, người tài sĩ như Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai họa. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi việc thảy đều đổ nát. Văn giai như Công Soạn tuổi gần tám mươi, tể thần  như Lê Ê không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, người già chẳng chết đi, trở thành mối họa. Bán quan mua kiện [GX], ưa giàu ghét nghèo. Hiền tài là rường cột của triều đình mà sạch không như quét đất. Văn chương là khí vận của nhà nước mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn siểm nịnh được tin dùng, kẻ đao bút được tiến cử [GX]…

Đó là việc trước mùa đông năm 1459, lúc Nghi Dân cướp ngôi. Tháng 6* năm 1460 các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt… xướng nghĩa, cùng bàn với nhau: “Nay Lạng Sơn vương Nghi Dân vô đạo, giết vua và Quốc mẫu hoàng thái hậu, tội ác không gì lớn bằng. Bọn chúng ta là bề tôi huân cựu, mắt thấy việc đó, đáng lẽ phải chết cho xã tắc, mà lại ở dưới kẻ nghịch, đứng trong triều của kẻ cướp ngôi giết vua, là tội nhân của muôn đời, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế [chỉ Lê Thái Tổ]dưới suối vàng nữa?” Thế là sau buổi chầu, mọi người đều vào ngồi ở Nghị sự đường ngoài cửa Sùng Vũ. Nhóm Nguyễn Xí giết chết phản nghịch đầu sỏ là Đồn, Ban trước Nghị sự đường, rồi sai đóng các cửa thành, mỗi người đem cấm binh đi dẹp nội loạn, giết hết bọn Trần Lăng. Các đại thần cùng bàn với nhau: “Ngôi trời khó khăn, thần khí rất trọng, nếu không phải là bậc đại đức, thì sao có thể kham nổi. Nay Bình Nguyên vương [chỉ Lê Tư Thành] thiên tư sáng suốt, hùng tài đại lược, hơn hẳn mọi người, các vương không ai so được, lòng người đều theo, đã biết ý trời đã quyết”, mới đón Tư Thành lên ngôi vua.

Tư Thành lúc này đã… trưởng thành nhưng ngai vàng… ngồi còn chưa nóng…, những việc tệ hại của quan lại… lớn đều chưa thể nói đến. Vì vậy, một năm sau khi lên ngôi, khi Nguyễn Như Đổ[3] không nằm trong nhóm Nguyễn Xí] xin cho Đỗ Bất Một tuổi đã già, được thôi việc quan, vua chỉ nói: “Trước kia, nhà ngươi xin bổ Bất Một làm Tổng tri vệ Bắc Bình, lúc ấy trong triều đã xôn xao bàn tán; bây giờ lại xin cho Bất Một được lấy chức Tổng binh để thôi việc. Nhà ngươi thật là người gian dối quá độ. Từ nay phải cẩn thận răn chừa mới được”. Nói thế, nhưng vua vẫn để Như Đỗ làm… Lại bộ thượng thư !
Rồi đến năm Quang Thuận thứ 3 (1462), vua cũng chỉ mới có sắc dụ Thái phó Nguyễn Xí một cách… nhẹ nhàng rằng: “Các ngươi vốn là quan võ làm trấn phủ. Nghĩa chữ “trấn phủ”, bọn vũ phu các ngươi có biết được không? Đến như Tăng Văn Trọng còn bị Khổng Tử chê là “trộm cắp ngôi vị”[ Khổng Tử nói: “Tăng Văn Trọng chẳng phải là kẻ trộm cướp ngôi vị đó ư? Biết Liễu Hạ Huệ là người hiền mà không cho cùng làm quan với mình” - Luận ngữ, thiên Vệ Linh công], huống chi các ngươi là bọn bịt đường của bậc hiền tài, khơi nguồn cho kẻ cầu may” ! Năm Quang Thuận thứ 4,  nhân việc Dương Quốc Minh tố cáo, vua ra sắc dụ cho Nguyễn Sư Hồi (con Nguyễn Xí), rằng: “…Ngô Tây lấy 30 lạng bạc… đến đút lọt bọn ngươi. Ngươi sai vợ lẽ nhận lấy. Vả khi trước nó đút lót cho cha ngươi là Xí 50 lạng, nay chuyển sang đút lót cho ngươi, tất cả là 80 lạng, hiện còn ở nhà ngươi, ngươi lại không biết hay sao? Nay đặc sai Tư lễ giám Nguyễn Áng đem sắc chỉ tới bảo ngươi và đòi lấy số 80 lạng đút lót ấy mang về. Ngươi có tội mà không ngại sửa bỏ tội lỗi thì sau này chắc chắn không bị tai họa”.
Đến thời điểm này, Thánh Tông cũng mới dám… “tịch thu tang vật” thôi nhưng còn “cẩn thận” dụ Hồi rằng: “Ta thể theo lòng người lên nhận ngôi báu, vẵn nhờ các bậc huân hiền đồng lòng giúp đỡ [GX], đến nay đã bốn năm rồi. Cha con ngươi, đầy nhà lớp lớp ngọc khuê giải ấn có thể gọi là thịnh lắm rồi. Ta vẫn tin ngươi. Dẫu có hư đó, cũng không hề suy giảm...”
Năm sau, vua cũng dụ Binh bộ thượng thư Nguyễn Vĩnh Tích (bị tố cáo ăn hối lộ 34 lạng bạc) theo kiểu “vừa đấm vừa xoa” như  đối với Sư Hồi:“Tuy có dụ này, nhưng ta cũng che giấu cho để ngươi tự sửa lỗi…” và “…Xem sớ của ngươi tâu bày, rất là thiết thực, xác đáng, dù họ Vương, họ Ngụy đời Đường [Vương Khêu và Ngụy Trưng đời Đường Thái Tông đều nổi tiếng về thẳng thắn can ngăn vua] cũng không hơn được. Đáng ban cho 10 lạng bạc để đáp lại lòng trung thành của ngươi. Vả lại lời bàn của ngươi rất hợp với ý của tiên nho, trẫm đã khen ngợi và tiếp thu cả”…

Vua vẫn là vua…
Năm 1465, Nguyễn Xí mất, Thánh Tông như trút được một gánh nặng, bắt đầu mạnh tay hơn trong việc trừng trị quan tham. Trước kia, Lê Hán Đình làm Chuyển vận, khi tại chức tham ô, sợ dân kiện, tâu xin nghỉ… dưỡng bệnh. Năm Quang Thuận thứ 8 (1467),  Chỉ huy sứ Đào Bảo tiến cử Hán Đình, “ca” Hán Đình và Thái chúc thừa Nguyễn Đức vốn giỏi binh pháp. Bọn Hán Đình dâng các trận đồ Trung hư; Mãn thiên tinh, Thường sơn xà... Vua khen ngợi, phong hai người làm Trấn điện phó tướng quân, sai quân tập theo trận đồ, hai ba lần đều không được. Vua sai Đình, Đức ra dạy cũng không được, nổi giận sai bắt đánh trượng rồi bãi chức đuổi về quê. Vua cho Binh bộ thượng thư Nguyễn Vĩnh Tích… chơi không vì Vĩnh Tích năm trước đi nhận bạc đút lót của người, nay giữ trọng trách Binh tào, lại xin bậy bổng lộc cho một viên Tổng tri, cho nên thu lại thẻ bài và cho ở không…
Khi Đô cấp sự trung Trịnh Thiết Trường hặc tội Hình bộ Đỗ Tông Nam làm quan ăn hối lộ; Lại bộ Nguyễn Như  Đổ tiến cử người xấu, xin giao cho pháp ty theo luật trị tội, Thánh Tông y theo.  Ngự đến chỗ Đông cung, hỏi chữ nghĩa học hôm trước, vua sa thải bọn Đông cung thị giảng là Vũ Nguyên Tiềm và Tạ Bửu ở Phụng Nghi đường vì “gà bài” sẵn cho thái tử và khi ra ba đề chế, chiếu, biểu, bắt bọn Tiềm và Bưu thi thì họ đều… quên lối làm, cả ba bài đều không thành văn lý. Vua xem xong, phê “Đáng tởm” ! Lại bộ thượng thư Nguyễn Như Đổ, Đông cung quan Trần Phong và Đô ngự sử đài Trần Xác vì thế bị quở trách về tội bảo cử bậy.
Như Đổ đưa 8 người thế gia thân quen ra để vua chọn. Vua cho rằng họ là bọn mới lên, tài năng bình thường. Hôm sau  vua lại sai cử 10 người đang giữ các chức trách trong kinh, xem tờ tâu của các đại thần, rồi loại bỏ hầu hết trong diện xét chọn và phê rằng “Lục bộ, Lục khoa và Ngự sử đài mà tiến cử bậy thì chịu tội giáng hay bãi chức. Nếu tiến cử được người giỏi thì nhất định sẽ được trọng thưởng”.
Vua cho là Lương Như Hộc tiến cử Trần Quý Huyên không phải là người giỏi, xuống chiếu giam Như Hộc vào ngục và thu lại văn bằng của Quý Huyên. Trạng nguyên Lương Thế Vinh cũng bị quở trách vì năng lực không tiến bộ…

Năm 1468, tháng 3, trả lời Như Đổ xin cho giáo thụ [quan chuyên giữ việc dạy học trò] … được cất nhắc lên chức tri huyện [quan cai trị trong một huyện, giữ công việc hành chính], Thánh Tông phê “Giáo thụ cần phải để giữ chức vụ lâu dài, mới có thể mong họ giáo dục học trò thành người tài giỏi được. Nhà ngươi giữ chức vụ lựa chọn cân nhắc để bổ sung các chức, nếu dám có điều gì thay đổi, tội ấy không phải nhỏ đâu!” Đổ lại xin cho Quản lãnh … được thăng chức Tổng tri[Theo binh chế đời Lê Thánh Tông, đặt ngũ phủ quân, mỗi phủ 6 vệ. Tổng tri là chức đứng đầu một vệ; mỗi vệ có 5 sở hoặc 6 sở, Quản lãnh là chức đứng đầu một sở], nhà vua nói: “Lê Bốc có bệnh tê, yếu đuối không thể làm gì được. Thế mà nhà ngươi hai ba lần xin cất nhắc hắn, nhà ngươi thật là một viên quan gian giảo”.
Tháng 10, Lê Bô phạm tội, phải luận vào tội kình [Một tội trong ngũ hình. Người bị tội bị thích chữ vào trán rồi đổ mực lên trên]. Trần Phong xin cho Lê Bô được nộp tiền chuộc tội. Nhà vua bảo với các quan “…Như thế thì người giàu có nhiều của đút lót mà khỏi tai vạ, người nghèo vì không có tiền mà chịu tội lỗi. Thế là Trần Phong dám làm trái cả phép tắc của tổ tông, thiện tiện tác uy tác phúc, để làm hại cả nước. Vậy hạ lệnh cho pháp ty xét xử trị tội theo luật định”.
Phong vốn là người hay ton hót. Lúc ấy, cha vợ cả của vua là Nguyễn Đức Trung và cậu vua là Nguyễn Yên vừa có quyền thế vừa được vua yêu không ai sánh bằng, Phong dùng mánh khoé, siểm nịnh,  cúc cung phụng sự hai người này. Một hôm, vì dư luận áp bức, Phong phải đàn hặc sự trái phép của Đức Trung nên tối ấy, Phong đến nhà Đức Trung để tạ lỗi. Phong lại xin làm sui gia với Nguyễn Yên, suốt ngày đứng lạy ở sân nhà Nguyễn Yên, Yên mới nhận lời. Nhà vua bảo với Như Đổ: “Trần Phong là người ngoài mặt làm ra nghiêm nghị, mà trong bụng thì nhu ác, nói năng khinh suất. Đến như hắn ton hót phụng sự bọn quyền quý thì lật đật như con lanh già giẫm yếm xéo đuôi; liếm… trôn trĩ của Đức Trung, hút mủ nhọt cho Nguyễn Yên [Hai câu này do thành ngữ "doãn ung thị trĩ" (mút ung thư, liếm mủ máu), đời xưa dùng để chửi độc địa những hạng tìm mọi cách đê hèn bẩn thỉu, nịnh hót người quyền quý để cầu giàu sang] . Đấy là mánh khoé sở trường của hắn dùng để tiến lên chức quan cao cả”.

Tháng 5 năm sau (1469) thái tử thị giảng [Chức quan cĩ nhiệm vụ giảng giải mọi điều cho Thi tử hiểu. Thường lấy những người có văn học. Cũng gọi là Đông cung thị giảng] Phạm Phổ cùng vợ đến nhà Huy nhân [quan hàm của mệnh phụ trong cung, trật tòng tam phẩm] là Đồng Đào, vừa lúc Đồng Đào đã vào cung rồi. Phổ cùng vợ cúi rạp xuống đất lạy chồng của Đào, nhờ đưa con gái mình vào trong cung để củng cố quyền vị. Vua dụ các quan trong triều: “Phạm Phổ là đứa tặc thần của nhà nước thôi”. Vì thế Phổ bị bãi chức…

Mua bán cả… vua
Thời Lý nước ta cũng xảy ra hai lần mua bán … vua suýt tí nữa là thành công. Một vụ xảy ra đời Lý Thần Tông (lên ngôi năm 1128).  Trước, vua đã lập hoàng thứ  trưởng tử Thiên Lộc (sinh năm 1132, là con người thiếp nhưng sinh trước nên vừa gọi là thứ vừa gọi là trưởng) làm thái tử , dự định sẽ cho nối ngôi vua. Tháng 9- 1138, vua bệnh nặng, ba phu nhân Cảm Thánh, Nhật Phụng và Phụng Thánh muốn đổi lập thái tử khác, mới sai người đem của đút cho Tham tri chính sự Từ Văn Thông, dặn nếu có vâng mệnh thảo di chiếu thì chớ bỏ lời của ba phu nhân. Văn Thông nhận lời. Đến khi vua ốm nặng, sai soạn thảo di chiếu, Văn Thông tuy vâng mệnh vua, nhưng nhớ lời dặn của ba phu nhân, cứ cầm bút mà không viết, cũng không dám có ý kiến. Một lát ba phu nhân đến, khóc lóc nghẹn ngào nói rằng: “Bọn thiếp nghe rằng, đời xưa lập con nối ngôi thì lập con đích chứ không lập con thứ. Thiên Lộc là con của người thiếp được vua yêu, nếu cho nối ngôi thì người mẹ tất sẽ tiếm lấn, sinh lòng ghen ghét làm hại, như thế thì mẹ con bọn thiếp tránh sao khỏi nạn?” Vua vì thế xuống chiếu rằng: “Hoàng tử Thiên Tộ (sinh năm1136) tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết, nên cho nối nghiệp của trẫm, còn thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương”.
Sử thần Ngô Sĩ Liên bình rằng “ Việc Từ Văn Thông ăn hối lộ thì đã rõ ràng. Lời nói của ba phu nhân thế là thẳng thắn, nhưng tiếc rằng khi ấy không gọi ngay kẻ đại thần biết khuông phò xã tắc mà uỷ thác con côi”.

Thiên Tộ nối ngôi là Lý Anh Tông, ở ngôi 37 năm (1138- 1175). Năm 1174, thái tử Long Xưởng thông dâm với cung phi, vua không nỡ bắt tội chết, cho nên chỉ phế làm thứ dân và bắt giam. Một hôm, vua gọi tể tướng Tô Hiến Thành đến bảo rằng: “Thái tử là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã làm điều trái đạo, trẫm muốn Long Trát (mới sinh) nối giữ nghiệp lớn, nhưng nó còn nhỏ tuổi, sợ không đương nổi. Nếu đợi lớn thì trẫm đã tuổi già suy yếu, biết làm thế nào?” Bấy giờ có nội nhân ẵm Long Trát ra, thấy vua đội mũ, khóc đòi đội, vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc to hơn. Vua bèn tháo mũ đội cho, Long Trát cả cười. Vua càng lấy làm lạ, ý lập Long Trát làm thái tử bèn quyết định.
Năm sau (1175), Anh Tông lập Long Trát làm hoàng thái tử, cho ở đông cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chương quân quốc trọng sự, tước vương, giúp đỡ đông cung. Mùa hạ, vua không khoẻ, hoàng hậu lại xin lập Long Xưởng. Vua nói “Làm con bất hiếu còn trị dân sao được?”, vẫn di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp rập thái tử, công việc quốc gia nhất nhất tuân theo phép cũ. Hoàng hậu muốn làm việc phế lập, sợ Hiến Thành không nghe, mới đem vàng bạc đút cho vợ là Lữ thị [ghi theo Cương mục, bản dịch Đại Việt sử ký toàn thư ghi là Nữ thị]. Hiến Thành nói: “Ta là đại thần nhận mệnh tiên đế dặn lại giúp rập vua bé, nay lấy của đút mà làm việc phế lập thì còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế ở suối vàng?” Hoàng hậu lại gọi Hiến Thành đến dỗ dành trăm cách. Hiến Thành trả lời: “Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có vui làm, huống chi lời của tiên đế còn ở bên tai, điện hạ lại không nghe việc của Y Doãn, Hoắc Quang [4] hay sao? Thần không dám vâng chiếu”. Việc bèn thôi.
Đến năm 1178,  hết quốc tang, Chiêu Linh thái hậu [trước là hoàng hậu] ban yến cho các quan ở biệt điện, bảo rằng: “Hiện nay Tiên đế đã chầu trời, vua nối còn thơ ấu, nước Chiêm Thành thất lễ, người phương Bắc cướp biên. Các khanh chịu ơn nặng của triều đình, nên lo việc của nước nhà. Kế sách ngày nay không gì bằng lập lại thái tử, để vận nước được lâu, lòng dân được yên”. Các quan đều chắp tay cúi đầu nói: “Thái phó [chỉ Tô Hiến Thành] là bậc cố mệnh đại thần [Bậc đại thần vâng mệnh lệnh nhận lãnh tờ chiếu của vua để lại khi vua sắp mất] nhận mệnh lệnh rõ ràng của thiên tử.  Bệ hạ[chỉ Chiêu Linh thái hậu] cũng đã nhiều lần dỗ bảo rồi, bọn thần không dám trái lệnh"”. Hiến Thành quản lĩnh cấm binh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, người trong nước đều quy phục. Chiêu Linh thái hậu không dám manh tâm mưu khác nữa…

Lời bàn của Phi Mao
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi từng viết nước ta “… hào kiệt thời nào cũng có”. Lúc bị giết vì vụ Lệ chi viên, Nguyễn Trãi từng than vì đã không nghe lời khuyên của vài viên quan là đừng tiếp tục “quan hệ” với triều đình. Hai lời nói cách nhau không quá lâu xa. Nhiều hào kiệt phải… ra đi ngay vào thời Lê Lợi [năm 1247 giết Tư mã Lê Lai, tịch thu tài sản vì cậy có công, nói năng khinh mạn- trước khi trở thành Lê Thái Tổ vào năm sau]. Nhiều hào kiệt cũng phải… ra đi vào thời Thái Tổ, Thái Tông sau khi trở thành khai quốc công thần. “Sống gần vua như ôm hổ mà ngủ” là thế.
Song điều muốn nói ở đây còn là một phía khác- khi hào kiệt trở thành quan lại và khi quan lại xuất thân không phải từ… hào kiệt. Bên cạnh trung thần tất nhiên sẽ có nịnh thần; bên cạnh quan liêm sẽ có quan tham; bên cạnh quan công sẽ có quan… tư; bên cạnh quan trí sẽ có quan ngu; bên cạnh những người làm quan mà đói “cả nhà mặt xanh như rau” như khi Tố Như Nguyễn Du làm quan thì cũng có những người “làm quan cả họ được nhờ” [như lời Hàn lâm học sĩ Hồ Tông Thốc trả lời vua Trần Nghệ Tông (1370- 1372) khi làm An phủ, có lấy của dân, việc bị phát giác, Nghệ Tông thấy làm lạ hỏi ông chuyện đó. Tông Thốc lạy tạ thưa rằng: "Một con chịu ơn vua, cả nhà ăn lộc trời", vua tha tội cho. Tông Thốc làm quan đến đời Trần Phế Đế, năm 1386 được phong chức Hàn lâm học sĩ]... Nói chung là quan lại… mặt trái thì lại có trăm phương ngàn cách để tiến thân mà tài nghề, năng lực chỉ là chuyện… nhỏ; đấu tranh là chuyện… tránh đâu cũng bị trâu đánh… Còn trăm phương ngàn cách, “túm lại” cũng chỉ có mấy chữ, cho nên cũng chẳng cần mở rộng cái tivi làm gì. Đó là “nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế”. Cần nhất là phải có tiền để vung vãi tung toé trong “quan hệ”; cần phải biết “lắng nghe” ý xếp để “dâng mỡ đến miệng mèo” khi thích hợp; cần phải biết… chơi tennis, biết… thẩm mỹ viện nào có thể biến Chung Vô Diệm thành Tây Thi hay rành cả tứ đổ tường… là một lợi thế [nhưng phải biết là chơi với ai, chơi khi nào]; chỉ cần biết “đội trên đạp dưới” là đã dư sức ngoi lên… Khi trở thành quan rồi thì cũng cứ những chiêu ấy mà thăng chức, mà gỡ gạc, mà tích luỹ bằng ngàn bằng vạn đồng vốn “mồ hôi nước mắt” đã dùng để lót đường, mà hạ cánh an toàn. Chứ  nếu “hy sinh đời bố củng cố đời con” lắm khi cũng… khốn nạn vì “tiền mình nó xài, con mình nó sai, vợ mình nó xơi” thì trót “được” tiếng quan tham cũng thành quan ngốc!
Đó chẳng qua là “nghệ thuật” làm quan cấp dưới. Làm quan cấp trên thì cần phải biết… cho cấp dưới… đi học đúng lúc, đúng nơi; cần thiết thì “thí chốt” để “những ai chưa bị lộ thì không bị lộ”. Phương châm cơ bản là không được làm trái với… mệnh trời, vua không biết đâu là con ngựa đâu là con dê thì mình cũng rứa. Và phải biết “gợi ý” đúng người cúng dường khi phải cúng- dù cho là một bữa nhậu, bởi “thà giết lầm còn hơn bỏ sót”, chứ có lẽ nào “tao ngồi trên mà chỉ được húp cháo còn tụi bây láo nháo ở dưới lại được ăn gà” ?


Phần chú thích
*Tháng ghi trong bài đều là tháng âm lịch.
[1]Năm Kỷ Mão 1459, mùa đông, mồng 3 tháng 10 , Lạng Sơn vương Nghi Dân đang đêm bắc thang, chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm. Vua và Tuyên Từ hoàng thái hậu đều bị hại.
Trước kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập làm thái tử, mới ngầm mưu soán ngôi báu cùng Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng. Bấy giờ, Lê Đắc Ninh là Đô chỉ huy giữ cấm binh đương phiên trực, đã không chịu dẫn quân ra ngăn,  lại đem giúp kẻ phản nghịch.
[2] Con thứ tư của Thái Tông với Tiệp dư (Danh hiệu một nữ quan ở trong cung, cũng là vợ vua, nhưng cấp bậc thấp hơn phi tần) họ Ngô, người Thanh Hoá. Tục truyền rằng khi còn là Tiệp dư, khi sắp ở cữ, nhân thư thả chợp mắt, mơ thấy mình đến chỗ Thượng đế, Thượng đế sai một tiên đồng xuống làm con Thái hậu, tiên đồng chần chừ mãi không chịu đi, Thượng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh vào trán chảy máu ra. Sau tỉnh dậy, rồi sinh ra vua, trên trán vua vẫn còn dấu vết lờ mờ như thấy trong giấc mơ, mãi đến khi chết, vết ấy vẫn không mất.
[3] Nguyễn Như Đổ: Người làng Đại Lan, huyện Thanh Đàm (Nay là thôn Đại Lan, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, Hà Nội), đỗ tiến sĩ cập đệ đệ nhị danh (bảng nhãn) khoa Nhâm Tuất (1442).
[4] *Bầy tôi nhà Ân, sau khi Thành Thang nhà Ân mất, cháu là Thái Giáp lên nối ngôi vua. Vì Thái Giáp thất đức, nên Y Doãn truất bỏ đi, cho ra ở Đông cung. Sau Thái Giáp biết bỏ điều tà theo điều chính, Y Doãn lại rước về lập làm vua.
*Bầy tôi nhà Hán, sau khi Hán Chiêu đế mất. Xương Ấp vương lên nối ngôi, vì Xương Ấp vương là người hoang dâm vô đạo, Hoắc Quang truất bỏ đi mà lập người cháu Hán Vũ đế tên là Tuân tức là Hán Tuyên đế. Sau Quang bị Tuyên đế buộc vào tội phản nghịch, phải tội giết cả họ.




















Mua quan bán chức 2

Mua quan bán chức 2
                                                                                                       [Tiếp theo phần 1]
                                                                                                                       
Hệ luỵ mua bán cả vua
                                                                                                                             Tiểu lãn tử
Vua Lê Thánh tông băng năm 1497, Lê Hiến tông kế vị được 7 năm, ngoài dẹp xâm lăng, quy mô đã định sẵn, không cần phải thay đổi việc gì, chỉ cốt noi theo phép tắc cũ, làm cho ngày một mở rộng mà tươi sáng hơn, để tỏ rõ công đức của ông cha” rồi mất, nhà Hậu Lê đến một giai đoạn suy tàn, việc mua bán vua diễn ra… khốc liệt hơn, kèm theo cả những hậu quả ghê gớm, kể cả việc … thí quân. “Quân” đây có hai nghĩa- vừa vua vừa “chốt”.


Thí vua… vua thí
Năm 1504, Lê Túc tông băng hà khi làm vua chỉ mới một năm, không có con nối, Kính phi [người xã Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường, nay là huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng - theo Cương mục] mưu lập vua ở trong cung cấm, đưa anh thứ của Túc tông, tên là Tấn  lên ngôi, lấy hiệu là Uy Mục. Mẹ của Uy Mục làNguyễn thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn [nay thuộc vào các huyện: Tiên Sơn (Bắc Ninh) và Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm Hà Nội. 1]. Nguyễn thị lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, phải bán mình cho người ở phủ Phụng Thiên. Sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm nô tỳ, được vào hầu Quản Ninh hoàng hậu [1]. Khi Hiến tông là thái tử, thấy Nguyễn thị có nhan sắc mới lấy làm phi.
Mẹ Uy Mục mất sớm, mẹ thứ là Kính phi không có con trai, nuôi Uy Mục làm con mình, có ý lập làm vua, sợ các đại thần không theo, mới đem vàng đút lót, nhưng lễ bộ thượng thư Đàm văn Lễ không nhận. Đến khi Hiến tông ốm nặng, văn Lễ và đô ngự sử Nguyễn Quang Bật nhận di chiếu phụ tá hoàng thái tử nối ngôi. Bấy giờ, các thân vương tranh nhau đòi lập, văn Lễ sợ xảy tai biến trong lúc bối rối, mới vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc đem về nhà, rồi cùng các đại thần lập Túc tông lên ngôi. Uy Mục vẫn lấy đó làm hận. “Quân tử trả thù ba năm cũng chưa muộn” huống hồ là một năm, lên ngôi xong, tháng 6 năm 1505, Uy Mục dùng mưu của hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi biếm văn Lễ, Quang Bật làm thừa tuyên sứ Quảng Nam rồi sai người đuổi theo, bắt phải tự tử. Hai người ngâm thơ tỏ rõ ý mình rồi mới gieo mình xuống nước tự trầm. Uy Mục đổ tội cho Nhữ Vi vàgiết luôn y.
Trước đó Uy Mục còn làm một việc “đại nghịch bất đạo” hơn nữa khi “sắp xếp” cho thái hoàng thái hậu [vợ Lê Thánh tông, con của tặng thái uý trinh quốc công Nguyễn Đức Trung] băng đột ngột ở chính tẩm điện Trường Lạc vào tháng 3- 1505, thọ 65 tuổi.
Nguyên nhân cái chết bí ẩn của thái hoàng thái hậu là do khi Túc tông băng không có con nối, Nhữ Vi định lập Uy Mục nhưng thái hoàng thái hậu “dám”cho rằng Uy Mục là con người tỳ thiếp, không thể nối được đạo chính thống, khăng khăng đòi lập Lữ Khôi vương [Cương mục viết là Lã côi vương. Chưa rõ là người nào. 2] . Nhữ Vi liền khuyên thái hoàng thái hậu đi đón vương rồi cho đóng các cửa thành lại lập Uy Mục làm vua. Khi Uy Mục được lập rồi, thái hoàng thái hậu có ý không vui. Uy Mục sai quan hầu cận ngầm giết thái hoàng thái hậu rồi… đau buồn nên lệnh cho bá quan nghỉ chầu một tuần, truy dâng tôn hiệu bà tổ mẫu là Huy gia tĩnh mục ôn cung nhu thuận thái hoàng thái hậu, lại dựng điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên, huyện Quảng Đức [nay là vùng phía Bắc nội thành Hà Nội, phần lớn thuộc quận Ba Đình và Đống Đa], để thờ tiên tổ thái hoàng thái hậu, cho tròn chữ hiếu!
Điều mỉa mai là khi Túc tông [em của Uy Mục] sắp mất, hạ sắc lệnh dụ bảo bầy tôi trong triều rằng: “Bệnh trẫm không khỏi được, trẫm lo việc nước ký thác nặng nề, không thể gánh vác nổi. Người con thứ hai của tiên hoàng là Tấn, hiền hòa, sáng suốt, nhân từ, hiếu nghĩa, có thể nối giữ chính thống được, đại thần trăm quan đều phải hết lòng trung trinh, để giúp nên nghiệp lớn. Các thân vương, nếu có người nào sinh lòng càn dòm dỏ ngôi báu, thì người trong nước đều có quyền giết chết”.

Thí vua mới được làm vua
Uy Mục vinh dự được sứ thần nhà Minh “tặng” hai câu thơ khi sang phong vương: “An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giáng quỷ vương ?” Ý nói: Vận mệnh nước Nam bốn trăm năm rất dài lâu, không biết ý trời thế nào mà lại giáng sinh ông vua quỷ sứ ?
Uy Mục đúng là vua quỷ. Từ khi lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân vui đùa uống rượu vô độ. Khi rượu say liền giết cả cung nhân. Bấy giờ, uy quyền thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của cha nuôi), phía tây thì làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của mẹ vua) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Lại ngầm sai nội nhân dò xét cả 26 vương là các chú và anh em của vua. Chỉ có Giản Tu công [Con Kiến vương Tân, cháu Thánh tông] bị giam vào ngục trốn thoát được vào tận cửa Thần phù [3], sai Lương Đắc Bằng thảo hịch, kể tội Quỷ vương, dụ đại thần và các quan. Giản trá xưng là Cẩm Giang vương[4], dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương. Tháng 10, năm Đoan Khánh thứ 5 [1509], Giản đem quân đến Đông Kinh, tự mình lập mình làm vua. Uy Mục bị vệ sĩ của mình bắt đem nộp [người này cũng bị Giản giết vì cho rằng làm chuyện bất nghĩa] phải tự tử. Giản Tu công vì việc trước đây Uy Mục giết hại cha mẹ, anh chị em mình rất thảm khốc, căm hận chưa nguôi, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ banh hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn ở quê mẹ là làng Phù Chẩn.

Hết vua quỷ đến… vua heo
Giản làm vua, sử gọi là Lê Tương Dực nhưng khi sứ Bắc sang phong, lại cũng “kháo” với nhau rằng : “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu.”
Tương Dực vừa lên ngôi hơn một năm thì thái giám mưu phản, nhân lúc vua đi chơi định lập người khác làm vua. Năm thứ ba [1511] vua vừa cho ban sách Trị bình bảo phạm [Khuôn phép quý báu về việc trị bình] rằng “Xưa Nghiêu, Thuấn được hạnh phúc yên vui, vốn gốc ở trọng Ngũ điển [năm đạo lớn vĩnh hằng của cha, mẹ, anh, em, con cái: cha phải có nghĩa, mẹ phải từ ái, anh phải yêu em, em phải kính anh, con phải hiếu thảo], vui Cửu tự [hay Cửu công là chỉ 9 việc về nước (thuỷ), lửa (hoả), kim khí (kim), gỗ (mộc), đất (thổ), lúa (cốc), sửa đức (chính đức), đem lại lợi ích cho dân (lợi dung), làm cho dân sống dồi dào (hậu sinh)]; Thang, Vũ thái bình thịnh trị do nền ở ban Ngũ giáo [năm điều dạy về quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè], dùng Bát chính [theo Kinh thư, bát chính là tám điều về trị nước: thực: đồ ăn, hoá tiền của, tự: cúng tế, tư không: chức giữ việc đất đai, tư đồ:  chức giữ việc dạy dỗ, tư khấu: chức giữ việc đánh dẹp, tân: việc tiếp khách, : thầy dạy]…[5]thì giặc nổi lên uy hiếp cả triều đình, quan lại bỏ trốn hoặc cho vợ con… di tản, đường phố không một bóng người. Sử ghi: “Mùa đông, Trần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây. Dân ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Vua sai hộ bộ hữu thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan đi khám xét phố xá, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán. Đến đây, lại sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần “hậu kiểm”, giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường Đông Hà, vì làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước”.
Tương Dực xa xỉ, hoang dâm vô độ, giết cả tông thất, không hề kém cạnh so với vua quỷ. Sử ghi năm 1512 vua sai Vũ Như Tô [Ngưòi xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng]làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền để mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quanh co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm.
Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười. Năm Giáp Tuất, [1514], vua cho giết 15 vương công vàgọi cung nhân của Mẫn Lệ công [Tức Uy Mục, sau khi Tương Dực giết, giáng phong làm Mẫn Lệ công] và cung nhân của triều trước để thông dâm… Rốt cuộc, hai năm sau đó, vua bị Trịnh Duy Sản “thí quân”, xác vắt ngang mình ngựa, kinh thành bị đốt phá, dân đổ xô vào hôi của, “vàng bạc, của báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 1,2 tấc, không thể kể xiết.Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến ba, bốn trăm lạng, người yếu cũng được đến hơn hai trăm lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch”, mở đầu một giai đoạn khủng hoảng triền miên…

Lời bàn của Phi Mao
“Nắng mưa là việc của trời, thí vua vua thí là thời… phiến kong”. Xem ra ghế càng cao thì việc “cạnh tranh” càng gay gắt. Uy Mục- Tương Dực là điển hình của câu “lươn chê lịch nhớt”. Tương Dực sai làm hịch hài tội Uy Mục, lời văn rúng động lòng người. Cuối cùng cũng chỉ là những lời hoa mỹ, dùng để tranh thủ nhân tâm, để “hất cẳng” Uy Mục mà thôi. Tránh vỏ dừa gặp vỏ dưa. Tương Dực làm vua, heo còn hơn quỷ, gian dâm cả với cung nhân của vua cha, xây điện trăm nóc, ngược đãi tôi trung… Đạo nghĩa thánh hiền lúc này trở thành lớp son loè loẹt để che giấu lớp gỗ mục ruỗng bên trong. Mỹ huệ hầu Duy Sản chỉ còn 30 quân, xé áo liều chết phá giặc, bảo vệ long ngai cho Tương Dực rồi sau đó giết Tương Dực. Quân không ra vua thì thần không ra quan. Quan ăn lộc nước, vậy mà khi có giặc thì cho vợ con lánh trước [để mình chạy sau], đến nỗi khi giặc tan rồi, vua về “đếm” lại trong triều chỉ còn 11 ông quan. Vua chết, quan nào cũng muốn lập vua “của mình” rồi giết lẫn nhau. Làm vua lúc này khổ lắm thay! Làm quan lúc này khổ lắm thay!   


 [1] Quản Ninh là theo nguyên văn. Theo chú thích của bản dịch cũ thì chữ này là Vĩnh Ninh bị chép lầm, vì Trường Lạc hoàng thái hậu khi còn làm sung nghi thì ở cung Vĩnh Ninh, khi Hiến tông lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu mới ở cung Trường Lạc.
[2] Sáu người con của Hiến tông: Con trưởng: An vương Tuân; con thứ
hai: Uy Mục; con thứ ba: Túc tông; con thứ tư: Thông vương Dong; con thứ năm:
Minh vương Trị; con thứ sáu: Tư vương Dưỡng.
[3] Cửa biển thời xưa, đã bị bồi lấp. Dấu vết cũ còn lại ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Tam Điệp), ngày xưa sông Chính Đại đổ ra biển ở chỗ đó.
[4] Cẩm Giang Vương: là phong hiệu của Lê Sùng, anh ruột Giản Tu công Lê Dinh.
[5] Theo Văn tịch chí của Phan Huy Chú, sách gồm 1 quyển, có 50 điều, đầu sách có lời dụ. Nhưng hiện nay chưa tìm được.




Mua quan bán chức 2
                                                                                                       [Tiếp theo phần 1]
                                                                                                                       
Hệ luỵ mua bán cả vua
                                                                                                                             Tiểu lãn tử
Vua Lê Thánh tông băng năm 1497, Lê Hiến tông kế vị được 7 năm, ngoài dẹp xâm lăng, quy mô đã định sẵn, không cần phải thay đổi việc gì, chỉ cốt noi theo phép tắc cũ, làm cho ngày một mở rộng mà tươi sáng hơn, để tỏ rõ công đức của ông cha” rồi mất, nhà Hậu Lê đến một giai đoạn suy tàn, việc mua bán vua diễn ra… khốc liệt hơn, kèm theo cả những hậu quả ghê gớm, kể cả việc … thí quân. “Quân” đây có hai nghĩa- vừa vua vừa “chốt”.


Thí vua… vua thí
Năm 1504, Lê Túc tông băng hà khi làm vua chỉ mới một năm, không có con nối, Kính phi [người xã Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường, nay là huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng - theo Cương mục] mưu lập vua ở trong cung cấm, đưa anh thứ của Túc tông, tên là Tấn  lên ngôi, lấy hiệu là Uy Mục. Mẹ của Uy Mục làNguyễn thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn [nay thuộc vào các huyện: Tiên Sơn (Bắc Ninh) và Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm Hà Nội. 1]. Nguyễn thị lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, phải bán mình cho người ở phủ Phụng Thiên. Sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm nô tỳ, được vào hầu Quản Ninh hoàng hậu [1]. Khi Hiến tông là thái tử, thấy Nguyễn thị có nhan sắc mới lấy làm phi.
Mẹ Uy Mục mất sớm, mẹ thứ là Kính phi không có con trai, nuôi Uy Mục làm con mình, có ý lập làm vua, sợ các đại thần không theo, mới đem vàng đút lót, nhưng lễ bộ thượng thư Đàm văn Lễ không nhận. Đến khi Hiến tông ốm nặng, văn Lễ và đô ngự sử Nguyễn Quang Bật nhận di chiếu phụ tá hoàng thái tử nối ngôi. Bấy giờ, các thân vương tranh nhau đòi lập, văn Lễ sợ xảy tai biến trong lúc bối rối, mới vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc đem về nhà, rồi cùng các đại thần lập Túc tông lên ngôi. Uy Mục vẫn lấy đó làm hận. “Quân tử trả thù ba năm cũng chưa muộn” huống hồ là một năm, lên ngôi xong, tháng 6 năm 1505, Uy Mục dùng mưu của hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi biếm văn Lễ, Quang Bật làm thừa tuyên sứ Quảng Nam rồi sai người đuổi theo, bắt phải tự tử. Hai người ngâm thơ tỏ rõ ý mình rồi mới gieo mình xuống nước tự trầm. Uy Mục đổ tội cho Nhữ Vi vàgiết luôn y.
Trước đó Uy Mục còn làm một việc “đại nghịch bất đạo” hơn nữa khi “sắp xếp” cho thái hoàng thái hậu [vợ Lê Thánh tông, con của tặng thái uý trinh quốc công Nguyễn Đức Trung] băng đột ngột ở chính tẩm điện Trường Lạc vào tháng 3- 1505, thọ 65 tuổi.
Nguyên nhân cái chết bí ẩn của thái hoàng thái hậu là do khi Túc tông băng không có con nối, Nhữ Vi định lập Uy Mục nhưng thái hoàng thái hậu “dám”cho rằng Uy Mục là con người tỳ thiếp, không thể nối được đạo chính thống, khăng khăng đòi lập Lữ Khôi vương [Cương mục viết là Lã côi vương. Chưa rõ là người nào. 2] . Nhữ Vi liền khuyên thái hoàng thái hậu đi đón vương rồi cho đóng các cửa thành lại lập Uy Mục làm vua. Khi Uy Mục được lập rồi, thái hoàng thái hậu có ý không vui. Uy Mục sai quan hầu cận ngầm giết thái hoàng thái hậu rồi… đau buồn nên lệnh cho bá quan nghỉ chầu một tuần, truy dâng tôn hiệu bà tổ mẫu là Huy gia tĩnh mục ôn cung nhu thuận thái hoàng thái hậu, lại dựng điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên, huyện Quảng Đức [nay là vùng phía Bắc nội thành Hà Nội, phần lớn thuộc quận Ba Đình và Đống Đa], để thờ tiên tổ thái hoàng thái hậu, cho tròn chữ hiếu!
Điều mỉa mai là khi Túc tông [em của Uy Mục] sắp mất, hạ sắc lệnh dụ bảo bầy tôi trong triều rằng: “Bệnh trẫm không khỏi được, trẫm lo việc nước ký thác nặng nề, không thể gánh vác nổi. Người con thứ hai của tiên hoàng là Tấn, hiền hòa, sáng suốt, nhân từ, hiếu nghĩa, có thể nối giữ chính thống được, đại thần trăm quan đều phải hết lòng trung trinh, để giúp nên nghiệp lớn. Các thân vương, nếu có người nào sinh lòng càn dòm dỏ ngôi báu, thì người trong nước đều có quyền giết chết”.

Thí vua mới được làm vua
Uy Mục vinh dự được sứ thần nhà Minh “tặng” hai câu thơ khi sang phong vương: “An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giáng quỷ vương ?” Ý nói: Vận mệnh nước Nam bốn trăm năm rất dài lâu, không biết ý trời thế nào mà lại giáng sinh ông vua quỷ sứ ?
Uy Mục đúng là vua quỷ. Từ khi lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân vui đùa uống rượu vô độ. Khi rượu say liền giết cả cung nhân. Bấy giờ, uy quyền thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của cha nuôi), phía tây thì làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của mẹ vua) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Lại ngầm sai nội nhân dò xét cả 26 vương là các chú và anh em của vua. Chỉ có Giản Tu công [Con Kiến vương Tân, cháu Thánh tông] bị giam vào ngục trốn thoát được vào tận cửa Thần phù [3], sai Lương Đắc Bằng thảo hịch, kể tội Quỷ vương, dụ đại thần và các quan. Giản trá xưng là Cẩm Giang vương[4], dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương. Tháng 10, năm Đoan Khánh thứ 5 [1509], Giản đem quân đến Đông Kinh, tự mình lập mình làm vua. Uy Mục bị vệ sĩ của mình bắt đem nộp [người này cũng bị Giản giết vì cho rằng làm chuyện bất nghĩa] phải tự tử. Giản Tu công vì việc trước đây Uy Mục giết hại cha mẹ, anh chị em mình rất thảm khốc, căm hận chưa nguôi, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ banh hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn ở quê mẹ là làng Phù Chẩn.

Hết vua quỷ đến… vua heo
Giản làm vua, sử gọi là Lê Tương Dực nhưng khi sứ Bắc sang phong, lại cũng “kháo” với nhau rằng : “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu.”
Tương Dực vừa lên ngôi hơn một năm thì thái giám mưu phản, nhân lúc vua đi chơi định lập người khác làm vua. Năm thứ ba [1511] vua vừa cho ban sách Trị bình bảo phạm [Khuôn phép quý báu về việc trị bình] rằng “Xưa Nghiêu, Thuấn được hạnh phúc yên vui, vốn gốc ở trọng Ngũ điển [năm đạo lớn vĩnh hằng của cha, mẹ, anh, em, con cái: cha phải có nghĩa, mẹ phải từ ái, anh phải yêu em, em phải kính anh, con phải hiếu thảo], vui Cửu tự [hay Cửu công là chỉ 9 việc về nước (thuỷ), lửa (hoả), kim khí (kim), gỗ (mộc), đất (thổ), lúa (cốc), sửa đức (chính đức), đem lại lợi ích cho dân (lợi dung), làm cho dân sống dồi dào (hậu sinh)]; Thang, Vũ thái bình thịnh trị do nền ở ban Ngũ giáo [năm điều dạy về quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè], dùng Bát chính [theo Kinh thư, bát chính là tám điều về trị nước: thực: đồ ăn, hoá tiền của, tự: cúng tế, tư không: chức giữ việc đất đai, tư đồ:  chức giữ việc dạy dỗ, tư khấu: chức giữ việc đánh dẹp, tân: việc tiếp khách, : thầy dạy]…[5]thì giặc nổi lên uy hiếp cả triều đình, quan lại bỏ trốn hoặc cho vợ con… di tản, đường phố không một bóng người. Sử ghi: “Mùa đông, Trần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây. Dân ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Vua sai hộ bộ hữu thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan đi khám xét phố xá, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán. Đến đây, lại sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần “hậu kiểm”, giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường Đông Hà, vì làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước”.
Tương Dực xa xỉ, hoang dâm vô độ, giết cả tông thất, không hề kém cạnh so với vua quỷ. Sử ghi năm 1512 vua sai Vũ Như Tô [Ngưòi xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng]làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền để mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quanh co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm.
Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười. Năm Giáp Tuất, [1514], vua cho giết 15 vương công vàgọi cung nhân của Mẫn Lệ công [Tức Uy Mục, sau khi Tương Dực giết, giáng phong làm Mẫn Lệ công] và cung nhân của triều trước để thông dâm… Rốt cuộc, hai năm sau đó, vua bị Trịnh Duy Sản “thí quân”, xác vắt ngang mình ngựa, kinh thành bị đốt phá, dân đổ xô vào hôi của, “vàng bạc, của báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 1,2 tấc, không thể kể xiết.Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến ba, bốn trăm lạng, người yếu cũng được đến hơn hai trăm lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch”, mở đầu một giai đoạn khủng hoảng triền miên…

Lời bàn của Phi Mao
“Nắng mưa là việc của trời, thí vua vua thí là thời… phiến kong”. Xem ra ghế càng cao thì việc “cạnh tranh” càng gay gắt. Uy Mục- Tương Dực là điển hình của câu “lươn chê lịch nhớt”. Tương Dực sai làm hịch hài tội Uy Mục, lời văn rúng động lòng người. Cuối cùng cũng chỉ là những lời hoa mỹ, dùng để tranh thủ nhân tâm, để “hất cẳng” Uy Mục mà thôi. Tránh vỏ dừa gặp vỏ dưa. Tương Dực làm vua, heo còn hơn quỷ, gian dâm cả với cung nhân của vua cha, xây điện trăm nóc, ngược đãi tôi trung… Đạo nghĩa thánh hiền lúc này trở thành lớp son loè loẹt để che giấu lớp gỗ mục ruỗng bên trong. Mỹ huệ hầu Duy Sản chỉ còn 30 quân, xé áo liều chết phá giặc, bảo vệ long ngai cho Tương Dực rồi sau đó giết Tương Dực. Quân không ra vua thì thần không ra quan. Quan ăn lộc nước, vậy mà khi có giặc thì cho vợ con lánh trước [để mình chạy sau], đến nỗi khi giặc tan rồi, vua về “đếm” lại trong triều chỉ còn 11 ông quan. Vua chết, quan nào cũng muốn lập vua “của mình” rồi giết lẫn nhau. Làm vua lúc này khổ lắm thay! Làm quan lúc này khổ lắm thay!   


 [1] Quản Ninh là theo nguyên văn. Theo chú thích của bản dịch cũ thì chữ này là Vĩnh Ninh bị chép lầm, vì Trường Lạc hoàng thái hậu khi còn làm sung nghi thì ở cung Vĩnh Ninh, khi Hiến tông lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu mới ở cung Trường Lạc.
[2] Sáu người con của Hiến tông: Con trưởng: An vương Tuân; con thứ
hai: Uy Mục; con thứ ba: Túc tông; con thứ tư: Thông vương Dong; con thứ năm:
Minh vương Trị; con thứ sáu: Tư vương Dưỡng.
[3] Cửa biển thời xưa, đã bị bồi lấp. Dấu vết cũ còn lại ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Tam Điệp), ngày xưa sông Chính Đại đổ ra biển ở chỗ đó.
[4] Cẩm Giang Vương: là phong hiệu của Lê Sùng, anh ruột Giản Tu công Lê Dinh.
[5] Theo Văn tịch chí của Phan Huy Chú, sách gồm 1 quyển, có 50 điều, đầu sách có lời dụ. Nhưng hiện nay chưa tìm được.























 Mua quan bán chức 2
                                                                                                       [Tiếp theo phần 1]
                                                                                                                       
Hệ luỵ mua bán cả vua
                                                                                                                             Tiểu lãn tử
Vua Lê Thánh tông băng năm 1497, Lê Hiến tông kế vị được 7 năm, ngoài dẹp xâm lăng, quy mô đã định sẵn, không cần phải thay đổi việc gì, chỉ cốt noi theo phép tắc cũ, làm cho ngày một mở rộng mà tươi sáng hơn, để tỏ rõ công đức của ông cha” rồi mất, nhà Hậu Lê đến một giai đoạn suy tàn, việc mua bán vua diễn ra… khốc liệt hơn, kèm theo cả những hậu quả ghê gớm, kể cả việc … thí quân. “Quân” đây có hai nghĩa- vừa vua vừa “chốt”.


Thí vua… vua thí
Năm 1504, Lê Túc tông băng hà khi làm vua chỉ mới một năm, không có con nối, Kính phi [người xã Hoa Lăng, huyện Thuỷ Đường, nay là huyện Thuỷ Nguyên, Hải Phòng - theo Cương mục] mưu lập vua ở trong cung cấm, đưa anh thứ của Túc tông, tên là Tấn  lên ngôi, lấy hiệu là Uy Mục. Mẹ của Uy Mục làNguyễn thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn [nay thuộc vào các huyện: Tiên Sơn (Bắc Ninh) và Đông Anh, Sóc Sơn, Gia Lâm Hà Nội. 1]. Nguyễn thị lúc bé mồ côi cha, nhà nghèo, phải bán mình cho người ở phủ Phụng Thiên. Sau nhà ấy có tội, Nguyễn thị bị tịch thu sung làm nô tỳ, được vào hầu Quản Ninh hoàng hậu [1]. Khi Hiến tông là thái tử, thấy Nguyễn thị có nhan sắc mới lấy làm phi.
Mẹ Uy Mục mất sớm, mẹ thứ là Kính phi không có con trai, nuôi Uy Mục làm con mình, có ý lập làm vua, sợ các đại thần không theo, mới đem vàng đút lót, nhưng lễ bộ thượng thư Đàm văn Lễ không nhận. Đến khi Hiến tông ốm nặng, văn Lễ và đô ngự sử Nguyễn Quang Bật nhận di chiếu phụ tá hoàng thái tử nối ngôi. Bấy giờ, các thân vương tranh nhau đòi lập, văn Lễ sợ xảy tai biến trong lúc bối rối, mới vào tẩm điện lấy ấn báu truyền quốc đem về nhà, rồi cùng các đại thần lập Túc tông lên ngôi. Uy Mục vẫn lấy đó làm hận. “Quân tử trả thù ba năm cũng chưa muộn” huống hồ là một năm, lên ngôi xong, tháng 6 năm 1505, Uy Mục dùng mưu của hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi biếm văn Lễ, Quang Bật làm thừa tuyên sứ Quảng Nam rồi sai người đuổi theo, bắt phải tự tử. Hai người ngâm thơ tỏ rõ ý mình rồi mới gieo mình xuống nước tự trầm. Uy Mục đổ tội cho Nhữ Vi vàgiết luôn y.
Trước đó Uy Mục còn làm một việc “đại nghịch bất đạo” hơn nữa khi “sắp xếp” cho thái hoàng thái hậu [vợ Lê Thánh tông, con của tặng thái uý trinh quốc công Nguyễn Đức Trung] băng đột ngột ở chính tẩm điện Trường Lạc vào tháng 3- 1505, thọ 65 tuổi.
Nguyên nhân cái chết bí ẩn của thái hoàng thái hậu là do khi Túc tông băng không có con nối, Nhữ Vi định lập Uy Mục nhưng thái hoàng thái hậu “dám”cho rằng Uy Mục là con người tỳ thiếp, không thể nối được đạo chính thống, khăng khăng đòi lập Lữ Khôi vương [Cương mục viết là Lã côi vương. Chưa rõ là người nào. 2] . Nhữ Vi liền khuyên thái hoàng thái hậu đi đón vương rồi cho đóng các cửa thành lại lập Uy Mục làm vua. Khi Uy Mục được lập rồi, thái hoàng thái hậu có ý không vui. Uy Mục sai quan hầu cận ngầm giết thái hoàng thái hậu rồi… đau buồn nên lệnh cho bá quan nghỉ chầu một tuần, truy dâng tôn hiệu bà tổ mẫu là Huy gia tĩnh mục ôn cung nhu thuận thái hoàng thái hậu, lại dựng điện Quang Mỹ ở phường Lệ Viên, huyện Quảng Đức [nay là vùng phía Bắc nội thành Hà Nội, phần lớn thuộc quận Ba Đình và Đống Đa], để thờ tiên tổ thái hoàng thái hậu, cho tròn chữ hiếu!
Điều mỉa mai là khi Túc tông [em của Uy Mục] sắp mất, hạ sắc lệnh dụ bảo bầy tôi trong triều rằng: “Bệnh trẫm không khỏi được, trẫm lo việc nước ký thác nặng nề, không thể gánh vác nổi. Người con thứ hai của tiên hoàng là Tấn, hiền hòa, sáng suốt, nhân từ, hiếu nghĩa, có thể nối giữ chính thống được, đại thần trăm quan đều phải hết lòng trung trinh, để giúp nên nghiệp lớn. Các thân vương, nếu có người nào sinh lòng càn dòm dỏ ngôi báu, thì người trong nước đều có quyền giết chết”.

Thí vua mới được làm vua
Uy Mục vinh dự được sứ thần nhà Minh “tặng” hai câu thơ khi sang phong vương: “An Nam tứ bách vận vưu trường, Thiên ý như hà giáng quỷ vương ?” Ý nói: Vận mệnh nước Nam bốn trăm năm rất dài lâu, không biết ý trời thế nào mà lại giáng sinh ông vua quỷ sứ ?
Uy Mục đúng là vua quỷ. Từ khi lên ngôi, vua đêm nào cũng cùng cung nhân vui đùa uống rượu vô độ. Khi rượu say liền giết cả cung nhân. Bấy giờ, uy quyền thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của cha nuôi), phía tây thì làng Nhân Mục (quê của vợ vua), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của mẹ vua) đều chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng đều cướp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy. Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ. Các quan người nào ngày trước không lập mình, thì thường giết đi. Lại ngầm sai nội nhân dò xét cả 26 vương là các chú và anh em của vua. Chỉ có Giản Tu công [Con Kiến vương Tân, cháu Thánh tông] bị giam vào ngục trốn thoát được vào tận cửa Thần phù [3], sai Lương Đắc Bằng thảo hịch, kể tội Quỷ vương, dụ đại thần và các quan. Giản trá xưng là Cẩm Giang vương[4], dựng cờ chiêu an của Cẩm Giang vương. Tháng 10, năm Đoan Khánh thứ 5 [1509], Giản đem quân đến Đông Kinh, tự mình lập mình làm vua. Uy Mục bị vệ sĩ của mình bắt đem nộp [người này cũng bị Giản giết vì cho rằng làm chuyện bất nghĩa] phải tự tử. Giản Tu công vì việc trước đây Uy Mục giết hại cha mẹ, anh chị em mình rất thảm khốc, căm hận chưa nguôi, sai người dùng súng lớn, để xác Uy Mục vào miệng súng, cho nổ banh hài cốt, chỉ lấy ít tro tàn về chôn ở quê mẹ là làng Phù Chẩn.

Hết vua quỷ đến… vua heo
Giản làm vua, sử gọi là Lê Tương Dực nhưng khi sứ Bắc sang phong, lại cũng “kháo” với nhau rằng : “Quốc vương An Nam mặt thì đẹp mà người lại lệch, tính háo dâm, là vua lợn, loạn vong sẽ không lâu đâu.”
Tương Dực vừa lên ngôi hơn một năm thì thái giám mưu phản, nhân lúc vua đi chơi định lập người khác làm vua. Năm thứ ba [1511] vua vừa cho ban sách Trị bình bảo phạm [Khuôn phép quý báu về việc trị bình] rằng “Xưa Nghiêu, Thuấn được hạnh phúc yên vui, vốn gốc ở trọng Ngũ điển [năm đạo lớn vĩnh hằng của cha, mẹ, anh, em, con cái: cha phải có nghĩa, mẹ phải từ ái, anh phải yêu em, em phải kính anh, con phải hiếu thảo], vui Cửu tự [hay Cửu công là chỉ 9 việc về nước (thuỷ), lửa (hoả), kim khí (kim), gỗ (mộc), đất (thổ), lúa (cốc), sửa đức (chính đức), đem lại lợi ích cho dân (lợi dung), làm cho dân sống dồi dào (hậu sinh)]; Thang, Vũ thái bình thịnh trị do nền ở ban Ngũ giáo [năm điều dạy về quan hệ: vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bạn bè], dùng Bát chính [theo Kinh thư, bát chính là tám điều về trị nước: thực: đồ ăn, hoá tiền của, tự: cúng tế, tư không: chức giữ việc đất đai, tư đồ:  chức giữ việc dạy dỗ, tư khấu: chức giữ việc đánh dẹp, tân: việc tiếp khách, : thầy dạy]…[5]thì giặc nổi lên uy hiếp cả triều đình, quan lại bỏ trốn hoặc cho vợ con… di tản, đường phố không một bóng người. Sử ghi: “Mùa đông, Trần Tuân nổi loạn ở vùng Sơn Tây. Dân ở kinh thành náo động, đều đem vợ con về quê quán, đường phố không còn một ai đi lại. Vua sai hộ bộ hữu thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan đi khám xét phố xá, xử tội rất nặng những người đã cho vợ con về quê quán. Đến đây, lại sai xá nhân đến tận nhà các đại thần và văn thần “hậu kiểm”, giết bọn Đĩnh Chi ở ngã ba phường Đông Hà, vì làm quan đi khám xét mà vợ con lại trốn về quê trước”.
Tương Dực xa xỉ, hoang dâm vô độ, giết cả tông thất, không hề kém cạnh so với vua quỷ. Sử ghi năm 1512 vua sai Vũ Như Tô [Ngưòi xã Minh Quyết, huyện Cẩm Giàng]làm điện lớn hơn trăm nóc, dùng hết tiền của và sức dân trong nước. Lại làm Cửu trùng đài, trước điện đào hồ thông với sông Tô Lịch để dẫn nước vào, thả thuyền để mặc sức du ngoạn. Hồ ấy quanh co khúc khuỷu, mở cửa cống có thể chở thuyền nhẹ ra vào để rong chơi, cực kỳ xa xỉ. Lại sai làm thuyền chiến, sai thợ vẽ kiểu, sai bọn nữ sử trần truồng chèo thuyền chơi trên hồ Tây, vua cùng chơi, lấy làm vui thích lắm.
Dân chúng đau khổ, binh lính mệt nhọc. Quân năm phủ đắp thành chưa xong được, đến đây lại có lệnh bắt các nha môn ở trong ngoài kinh thành phải làm, tập hợp nhau lấy hồ, khiêng đất. Vua hàng ngày bất thần ngự chơi các nơi, chỗ nào vừa ý thì thưởng cho bài vàng, bài bạc. Có chỗ đã làm xong lại phải làm lại, sửa đổi xây đắp lại, hết năm này qua năm khác, liên miên không dứt. Quân lính đắp thành mắc chứng dịch lệ đến một phần mười. Năm Giáp Tuất, [1514], vua cho giết 15 vương công vàgọi cung nhân của Mẫn Lệ công [Tức Uy Mục, sau khi Tương Dực giết, giáng phong làm Mẫn Lệ công] và cung nhân của triều trước để thông dâm… Rốt cuộc, hai năm sau đó, vua bị Trịnh Duy Sản “thí quân”, xác vắt ngang mình ngựa, kinh thành bị đốt phá, dân đổ xô vào hôi của, “vàng bạc, của báu, bạch đàn, xạ hương, lụa là tơ gai đầy trong dân gian; sách vở, hồ tiêu, hương liệu các thứ vứt bỏ trên đường phố cao đến 1,2 tấc, không thể kể xiết.Người mạnh khoẻ tranh cướp vàng bạc, có người lấy được đến ba, bốn trăm lạng, người yếu cũng được đến hơn hai trăm lạng. Cung khuyết, kho tàng do vậy mà hết sạch”, mở đầu một giai đoạn khủng hoảng triền miên…

Lời bàn của Phi Mao
“Nắng mưa là việc của trời, thí vua vua thí là thời… phiến kong”. Xem ra ghế càng cao thì việc “cạnh tranh” càng gay gắt. Uy Mục- Tương Dực là điển hình của câu “lươn chê lịch nhớt”. Tương Dực sai làm hịch hài tội Uy Mục, lời văn rúng động lòng người. Cuối cùng cũng chỉ là những lời hoa mỹ, dùng để tranh thủ nhân tâm, để “hất cẳng” Uy Mục mà thôi. Tránh vỏ dừa gặp vỏ dưa. Tương Dực làm vua, heo còn hơn quỷ, gian dâm cả với cung nhân của vua cha, xây điện trăm nóc, ngược đãi tôi trung… Đạo nghĩa thánh hiền lúc này trở thành lớp son loè loẹt để che giấu lớp gỗ mục ruỗng bên trong. Mỹ huệ hầu Duy Sản chỉ còn 30 quân, xé áo liều chết phá giặc, bảo vệ long ngai cho Tương Dực rồi sau đó giết Tương Dực. Quân không ra vua thì thần không ra quan. Quan ăn lộc nước, vậy mà khi có giặc thì cho vợ con lánh trước [để mình chạy sau], đến nỗi khi giặc tan rồi, vua về “đếm” lại trong triều chỉ còn 11 ông quan. Vua chết, quan nào cũng muốn lập vua “của mình” rồi giết lẫn nhau. Làm vua lúc này khổ lắm thay! Làm quan lúc này khổ lắm thay!   


 [1] Quản Ninh là theo nguyên văn. Theo chú thích của bản dịch cũ thì chữ này là Vĩnh Ninh bị chép lầm, vì Trường Lạc hoàng thái hậu khi còn làm sung nghi thì ở cung Vĩnh Ninh, khi Hiến tông lên ngôi, tôn làm hoàng thái hậu mới ở cung Trường Lạc.
[2] Sáu người con của Hiến tông: Con trưởng: An vương Tuân; con thứ
hai: Uy Mục; con thứ ba: Túc tông; con thứ tư: Thông vương Dong; con thứ năm:
Minh vương Trị; con thứ sáu: Tư vương Dưỡng.
[3] Cửa biển thời xưa, đã bị bồi lấp. Dấu vết cũ còn lại ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Tam Điệp), ngày xưa sông Chính Đại đổ ra biển ở chỗ đó.
[4] Cẩm Giang Vương: là phong hiệu của Lê Sùng, anh ruột Giản Tu công Lê Dinh.
[5] Theo Văn tịch chí của Phan Huy Chú, sách gồm 1 quyển, có 50 điều, đầu sách có lời dụ. Nhưng hiện nay chưa tìm được.