HẠNH PHÚC XXXIII
Ariyasaccāni dassanaṃ: Nết hạnh thấy các pháp Diệu đế
(Thấy được lý thánh đế)
Trước khi đắc quả
Vô thượng Chánh Đẳng Giác, đức Thế Tôn cũng là người như chúng ta, nhưng sở dĩ
ngài được giải thoát và chúng ta sùng kính ngài, học theo lời giảng dạy của
ngài, là nhờ ngài đắc được pháp gọi là Tứ diệu đế. Vì vậy nên thời pháp ngài
thuyết đầu tiên tại vườn Lộc Giả tại Bārāṇasī là Tứ diệu đế, bởi ngài nhận thấy
rằng Tứ diệu đế là sự thật của các bậc thánh nhơn. Sự thật của pháp nầy là xa hẳn
kẻ thù là phiền não. Sự thật mà các bậc thánh nhơn đắc Tứ diệu đế như là ấn chứng
của Phật ngôn. Vì Tứ diệu đế làm cho người tu Phật nếu biết thực hành theo một
cách nghiêm túc, chân chính thì đắc được đạo quả và không còn phiền não, khổ
đau nữa.
Phạn ngữ là ariyasacca, ta cắt nghĩa là diệu đế, có bốn chi. Từ ariyasacca, có thể chiết tự chia ra làm hai phần: Ariya nghĩa là cao quí, sacca nghĩa là sự thật (chân lý, đế).
+
Tóm lại như vầy:
- Tứ diệu đế là sự
thật rất cao quí.
- Tứ diệu đế làm
cho người thực hành trở nên cao quí.
1. Tứ diệu đế là sự thật rất cao quí - vì là khuôn vàng thước
ngọc, hay là một tiêu biểu có đầy đủ sự thật không ai sửa đổi được. Dầu đức Phật
sau này có thuyết về pháp Tứ diệu đế cũng dạy đúng như đức Phật hiện tại không
sai một điểm nào.
Tứ diệu đế cao quí
ví như kim cương. Kim cương là vật có màu sắc đẹp, cứng rắn, không có gì làm hư
hoại được; sét không ăn, không bị nhiễm mùi vị của vật gì. Người trong thế gian
nầy ai cũng chuộng kim cương. Không phải kim cương có giá trị cao quí vì sự quảng
cáo của con người, mà chính vì kim cương có tính chất cao quí.
2. Tứ diệu đế làm cho người thực hành trở nên cao quí -
nghĩa là khi hành giả thấy rõ pháp Tứ diệu đế bằng tuệ nhãn, pháp mà vị hành giả
ấy đắc, là làm cho hành giả trở nên cao quí. Ví như phòng khách của chúng ta
chưng bày đồ vật quí giá, sơn màu tươi đẹp lộng lẫy, thì phòng ấy trở nên đẹp đẽ
và nơi nào trông cũng vừa lòng, thích mắt. Giờ cũng phòng ấy mà chúng ta sơn
đen, đốt đèn leo lét, chưng những đồ vật không giá trị, để cho chuột cắn phá,
rúc rỉa thì phòng ấy trông lộn xộn, bừa bãi và chắc chắn rằng không ai muốn ngồi
một phút nào hết. Tâm ví như phòng ấy. Nếu tâm hành giả được trang điểm bằng
pháp Tứ diệu đế thì sáng suốt, đẹp, cao quí; nhược bằng tâm hành giả trang bị bằng
tham lam, sân hận, si mê, tà kiến, oán thù ... thì tâm ấy trở nên tồi tệ, không
ai muốn gần và những người đã gần lại tìm cách thế lánh đi cho mau.
Sự thật của Tứ đế
là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khi người bắt đầu thấy bằng tuệ nhãn thì phiền não cũng
bắt đầu xa lần, rút lui dần. Khi càng ngày ta càng thấy biết rõ rệt, liễu thông
thì phiền não bắt đầu rút đi thật xa. Khi chúng ta thấy biết một cách hoàn
toàn, triệt để nhờ tuệ tri, giác tri, minh tri thì không còn phiền não tí nào
trong tâm: Người ấy đã trở nên người khác, mà Phật giáo gọi là thánh nhân,
nghĩa là người cao quí.
Giác tri, minh tri
pháp Tứ diệu làm cho người cao quí trở nên thánh nhơn là vậy.
Muốn thông hiểu
pháp Tứ đế, phải hiểu theo thứ tự gọi là hiểu 03 luân và 12 thể, xin quí vị xem
bảng dưới đây:
TỨ
ĐẾ
|
BA LUÂN
|
|
Hiểu lần
thứ nhất
|
Hiểu lần
thứ nhì
|
Hiểu lần
thứ ba
|
KHỔ
|
1. Khổ có thật
|
5. Khổ cần phải hiểu.
|
9. Ta đã hiểu khổ rồi
|
TẬP
|
2. Ái dục sanh khổ có thật.
|
6. Ái dục phải diệt
|
10. Ta diệt
ái dục rồi.
|
DIỆT
|
3. Diệt có thật
|
7. Phải hành thấu rõ diệt
|
11. Ta đã làm cho rõ rệt rồi.
|
ĐẠO
|
4. Đạo có thật.
|
8. Phải hành cho rõ Đạo
|
12. Ta đã hành đạo đầy đủ rồi.
|
Trong bảng trên đây hành giả thấy rằng
Tứ diệu đế gồm 04 điều. Mỗi điều phải hiểu rõ đến 03 lần, 04 điều là 12 lần,
vòng đi vòng lại, nên gọi là 12 thể. Ba vòng ấy gọi là 03 luân.
Điều đại khái là sự hiểu biết của Tứ diệu
đế khác hơn tất cả những sự hiểu biết khác. Mọi sự hiểu biết trên đời đều thuộc
cái biết của thức tri, của trí năng, còn đau khổ; cái thấy biết của Tứ diệu đế
thuộc về cái thấy biết của tuệ tri, tuệ giác, đã diệt tận phiền não.
Đối với Tứ diệu đế - thì biết và thực
hành phải đi đôi. Nếu biết mà không thực hành là không đắc được. Quí vị hãy xem
kỹ lại trên đây cột thứ 03 có đề: “Hiểu
lần thứ 03 - Ta đã hiểu khổ rồi”số 09. Nếu
chưa rõ là chưa hiểu, nên chưa đắc đạo quả, chưa gọi là thánh nhơn được. Khi ta
biết rằng ta đã hiểu rõ rồi, đây mới là sự thật [20].
Hiểu rõ khổ có thể ví như hiểu rõ thuốc,
như vầy:
1. Biết rằng đây là thuốc chữa bịnh.
2. Biết rằng thuốc nầy nên uống.
3. Biết rằng ta đã uống thuốc rồi.
Trong ba cái biết, cái biết quan trọng
nhất là biết: Đã uống thuốc rồi.
Giờ xin quí vị đem hiểu biết về Tứ diệu
đế của quí vị lại so với bảng trước, coi quí vị hiểu biết tới trình độ nào? Vị
nào hiểu biết luân thứ nhứt, chưa gọi là hiểu hoàn toàn, vì mới biết khổ do nơi
nghe pháp; ta cũng có biết luân hồi là khổ, nhưng chỉ biết bằng tâm chứ không
phải bằng trí tuệ.
Diệu đế thứ nhứt: Khổ đế
Diệu đế thứ nhứt là khổ. Khi ta nghe
nói khổ, ta không nhận thấy cái gì là tai hại của khổ. Vì ai ai cũng biết đời
là khổ cực đủ điều. Nhưng sự thật trong sự hiểu khổ của chúng sanh và sự hiểu
khổ của thánh nhơn có khác nhau: Các bậc thánh nhơn hiểu khổ, thấy khổ bằng tuệ;
còn ta thấy bằng tâm trong cảnh ngộ, khi qua khỏi cảnh ngộ ta lại quên đi khổ
cũng như khi lâm bịnh, chúng sanh thấy khổ, nhưng khi mạnh thì lại quên khổ.
Trái lại thánh nhơn dầu bịnh hay không cũng thấy có thân này là khổ, là ổ khổ.
Hơn nữa, chúng sanh chỉ biết khổ, nhưng
không biết nguyên nhân sanh khổ, nên không sợ lắm. Riêng các bậc thánh nhơn thấy
rõ khổ và biết rõ nguyên nhân sanh khổ, nguồn gốc của khổ. Đây xin ví dụ sự biết
bịnh của người bịnh và sự biết của vị bác sĩ. Người bịnh biết rằng: Ta bịnh
nhưng không biết do đâu có bịnh. Vị bác sĩ biết bịnh và nguyên nhân sanh bịnh,
mà còn biết thuốc để trị bịnh.
Vị bác sĩ tôi tạm ví như đức Phật vì
ngài biết khổ và nguyên nhân sanh khổ, hơn thế nữa, ngài lại biết phương pháp dập
tắt khổ. Còn người bịnh là chúng ta đây, chỉ biết khổ nhưng chịu chết với khổ
chớ không có phương pháp nào chạy khỏi khổ.
Đây tôi xin nhắc lại Phật ngôn trong
bài kinh Chuyển pháp luân, ngài thuyết lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả.
+ Trước hết tôi xin
nói có hai cái khổ để quí vị dễ nhận định.
1. Sabhāvadukkha: Khổ
theo liền với thân. Phật ngôn dạy trong bài Chuyển pháp luân rằng: Nầy các thầy
tỳ-khưu! Sanh khổ, già khổ, chết khổ (khổ
này liền với thân vì khi có thân là có khổ nầy theo liền).
2. Pakiṇṇadukkha: Khổ
nếu sau khi có thân này là: Khổ vì sự trái ý nghịch lòng, khổ vì thất vọng, khổ
vì bực tức, khổ vì uất ức, khổ vì thân ái biệt li, khổ vì oán thù hội ngộ, khổ
vì sự li biệt người yêu, khổ vì không được như ý (những khổ này đến sau khi có được
thân này).
Khổ, nói chung lại, chỉ có một là: Saṅkhitena pañca paṭṭhānakkhandhadukkha: Tóm lại, sự chấp lấy thân ngũ uẩn
là khổ.
Chúng ta thấy khổ trên đây chia ra hai
loại:
Khổ do thần nầy, và khổ mới đến sau.
Còn câu chót đức Thế Tôn dạy: Vì ta còn chấp lấy thân nầy nên có khổ, nghĩa là
còn có thân là có khổ.
Lẽ ra tôi phải viết hết 12 [21] cái
khổ. Tôi không giải những cái khổ ở phần nhì vì quí vị hiểu và chắc chắn gặp nó
luôn luôn trên đường đời. Trong loại khổ đi chung với thân ngũ uẩn, có khổ
sanh, già, chết; chắc quí vị thắc mắc tại sao tôi không kể đau, vì đúng theo phạn ngữ không có đề cập đau. Các bậc chú giải có thêm đau vào nên tất cả có 13 thứ khổ nên trong
kinh nào cũng liệt đau vào tứ khổ (sanh, già, đau, chết).
Sanh khổ
Sanh khổ, nghĩa là khi sinh ra có thân
nầy giờ nào, là khổ theo liền bên trong vào ấy.
+ Sanh khổ có 3 điều:
1. Khổ khi còn trong thai bào
2. Khổ khi sanh,
3. Khổ vì sự sanh. Ý nói vì có sanh,
nên có những khổ khác theo bên.
Như đã nói trên, khổ có 13 chi. Tôi xin
ví dụ. Sanh như cái đùm của bánh xe và 11 cái khổ kia là căm xe. Bánh xe nầy
lăn đi được là do nơi bộ máy điều khiển là ái dục.
- Để chứng minh sanh
khổ, đức Phật có dạy 10 điều sanh khổ:
1. Biến tướng khổ: Là
sự tuần tự biến chuyển của bào thai, thay đổi mãi cho tới khi có đủ các bộ phận.
Bắt đầu thọ khổ khi mới tượng lên cho tới lớn có đủ bộ phận thì bị nhiều điều
khổ, do vật thực của mẹ ăn vào.
2. Kinh khủng khổ: Đứa
bé chịu nhiều nỗi kinh khủng như bà mẹ làm việc nặng nhọc xóc xáo hoặc trợt
chơn vấp té...
3. Hoành sanh khổ: Cái
khổ khi thai bào day trở, lúc day đầu xuống hay day ngang hông mẹ, đứa bé kinh
khủng không khác nào chim con bị bão lớn.
4. Nạn sanh khổ: Trong
lúc sanh nở gặp khó khăn. Đứa bé bị gió nghiệp chướng đẩy cho day đầu xuống để
sanh, đứa nhỏ kinh khủng như người bị rớt từ trên cao xuống. Khi sanh ra hài
nhi phải bị cọ ép ví như tượng to chui ra kẻ đá nhỏ. Thực tế hơn chỉ có quí bà
nào đã làm mẹ rồi mới hiểu.
5. Hàm thống khổ: Khi
vừa sanh ra, da còn non lại bị đem đi tắm, sự đau rát ấy có ai biết ra sao, chỉ
có đứa bé ấy mới biết khổ ấy là như thế nào thôi.
6. Thọ nghiệp khổ: Sau
khi sanh ra đến khôn lớn, tiền nghiệp lại đến. Nếu nghiệp ác thì chịu khổ sở đủ
điều, nào là bị hiếp đáp, đói khó, hoạn nạn... không sao kể hết.
7. Quả báo khổ: Sau
khi lớn lên, lại bị quả báo như bị kẻ khác phao vu, bị người làm hại, mặc dầu
là vô can hoặc bị chiến tranh bom rơi, đạn lạc...
8. Duyên sanh khổ: Vì
có sanh nên sanh khổ, chúng sanh bị đọa vào ác đạo cũng do sanh ra mà có.
9. Chúng sanh sanh
vào súc sanh bị hành hạ khổ cũng là duyên sanh khổ.
10. Chúng sanh bị
đói khát trong cảnh quỉ đói cũng duyên sanh khổ.
Mười khổ trên
đây có thể chia ra làm hai loại: Từ 1 đến 5 thì sanh là khổ; từ 6 đến 10 thì
sanh là nhân khổ.
Già khổ
Già là gì? Già
nghĩa là mọi vật trong thân hình ta đều thay đổi như: Tóc đen hóa trắng, mắt
sáng trở thành mờ, tai rõ lại điếc... Tóm lại, vật gì trong thân tâm khi trước
tốt mạnh, nay đổi lại xấu, yếu, hư gọi là già. Đức Phật gọi đó là Jarā nhưng theo Phạn ngữ thì là cũ. Ý nói rằng thân ta đây ví như cái xe,
mà cái xe của người chủ rất tham lam, chở nhiều, làm việc suốt ngày đêm, nên
mau hư, mau cũ. Cái xe cũ thì quí vị biết nó có trạng thái ra sao? Thân nầy
cũng vậy, có một mình ta phải lo ăn uống... mà còn chở thêm của cải vợ
con nữa... Do làm lụng quá sức, do lo sợ, lo lắng quá nhiều nên mau già. Khi đã
gọi là già, thì không có gì trong cơ thể không biến đổi thành hư xấu, cũ nát, tồi
tệ.
+
Đức Phật dạy có hai cái già:
1. Parijjiṇṇa [22]: Già là sự thay đổi hình dáng, nghĩa là khi ta còn nhỏ từ từ lớn lên hình
dáng thay đổi, sự tuần tự thay đổi của con người từ bé đến 30 tuổi, người ta
không cho tuổi ấy là già, mà gọi là trưởng thành. Vì trong tuổi ấy, càng lớn
càng mạnh, đẹp. Các cơ quan trong mình không thấy yếu mà trái lại ngày càng mạnh
thêm. Ai ai cũng ưa thích tuổi nầy. Vì vậy nên người ta không thấy khổ trong khổ đế là vì vậy. Theo lời Phật dạy, cái gì
thay đổi thì gọi là già. Nhưng cái già kể trên che ám trí tuệ của con người.
2. Paripakka [23]: Già làm cho ta thấy rõ rệt là da nhăn, mắt mờ, tai điếc, răng rụng, tay
chân run rẩy, chính mình không còn làm chủ cơ thể của mình được. Cái gì già mới
là khổ thật sự, vì cái già nầy làm giảm cả sức lực, đem lại cho ta nhiều bịnh
hoạn.
Bịnh khổ
Bịnh là những gì
phụ với già để tàn phá các bộ phận trong người của chúng ta, bịnh ấy làm chúng
ta mau già hơn, cũng như cái xe khi đã bị hư một món nào dầu có sửa chữa lại,
cũng vẫn không còn hoàn hảo bằng cái mới.
Chết khổ
Chết chỉ là sự
tiêu hoại thân hình nầy. Vậy chết làm cho con người khổ cách nào? Khi ta chết,
ta chưa thấy cái khổ ấy, chỉ có người chết mới thấy rõ. Cái chết là khổ làm tất
cả các cái khổ khác dồn vào, như mến tiếc vợ, con, của cải; cái chết làm mất
vui thích của mình trong đời nầy; đôi khi có người còn khổ do hối tiếc vì đã
không làm được điều gì lành, tốt trên cuộc đời nầy.
Thử nhắm mắt lại
và nghĩ rằng, khi ta chết ta có đem theo được cái gì? Khi thấy ta từ bỏ cả nhân
thân, vợ con, quyến thuộc, của cải, tài sản... thì hỏi ta có khổ không?
Nếu khi ta nhận thấy
rằng, ta có đem theo được những việc làm lành như bố thí, trì giới... thì ta thấy
lòng ta bớt hối tiếc, bớt lo sợ. Nhưng trái lại, nếu thấy có nhiều tội, thì ta
càng kinh khủng hơn. Vậy xin quí vị tự nghĩ mà sửa chữa thân, khẩu, ý ngay
chính trong đời này, ngay hiện tại bây giờ đây - kẻo không còn kịp nữa.
Tứ diệu đế thứ nhứt
là khổ, khổ đế. Đức Phật dạy hãy biết khổ cho rõ rệt, như bác sĩ hiểu rõ bịnh của
bịnh nhơn.
Khổ mà Đức Phật dạy
có thể chia ra làm hai loại trạng thái: sanh, già, đau, chết là trạng thái của
sắc uẩn, còn các khổ kia thuộc về tâm lý - danh uẩn - như thương, ghét, hờn giận,
lo sợ, sầu muộn, uất ức...là trạng thái của thọ, tưởng, hành, thức.
Diệu đế thứ nhì: Tập đế
Đức Thế Tôn đã dạy
về khổ cho chúng sanh thấy để kinh sợ hầu tránh khỏi, chẳng khác nào ngài dạy rằng:
Cọp là thú ăn thịt người, rồi ngài mới đem cọp ấy về nhốt trong chuồng bằng sắt
rất chắc; gọi chúng sanh đến xem cho biết cọp có những gì đáng sợ, và nên nhớ
hình dáng nó để tránh xa, hay chống lại.
Tập đế đây ví như
hành động của cọp. Tứ diệu đế là pháp khó nhận thức cho hoàn toàn được. Đức Thế
Tôn phải mất 6 năm khổ hạnh mới giác ngộ, và khi ngài muốn đem ra thuyết giảng;
ngài còn phải chọn coi ai là người có đủ trí tuệ nhận thức rõ được pháp ấy.
Vậy nơi đây tôi
xin cố hết sức sưu tầm những gì mà tôi biết để giải theo đây, hầu giúp quí vị
là người muốn tìm con đường thoát khổ.
Tập đế là nguyên
nhân sanh khổ, là nhân làm cho chúng ta khổ như đã giải ở trên.
Đây là câu Phật
ngôn trong bài kinh Chuyển pháp luân:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Đây là nhân
sanh khổ thật sự, nó là ái dục, là nhân làm cho chúng sanh vào ra các cõi, rồi
lẫn lộn ưa thích các cảnh giới như dục giới, sắc giới và vô sắc giới”.
Nhân làm cho sanh
khổ gọi là tập đế, nó là ái dục. Tác động của ái dục là nhân làm cho con người
phải sanh lại một cõi nào trong ba cõi tùy theo sự thèm muốn của ái dục.
+
Muốn cho dễ hiểu tôi xin chia ra bốn điều là:
1. Nhân làm cho sanh khổ.
2. Ái dục là gì?
3. Ái dục có ba loại.
4. Phận sự của hai Diệu đế.
(1)- Nhân làm cho sanh khổ.
Sự sanh khổ thì ai cũng biết, nhưng đức
Phật lại dạy về khổ chẳng qua để làm sáng thêm cái hiểu biết của con người.
Chỉ có điều, nguyên nhân sanh khổ là một
vấn đề không mấy ai hiểu và là một pháp khó thấy, khó biết; chỉ có Phật mới nhận
thấy thôi. Trong thời kỳ ngài mới thành đạo, người trong cõi Diêm-phù-đề tin rằng,
sự vui khổ của chúng sanh là do nơi một đấng thiêng liêng ban phước hoặc giáng
tội cho. Họ tin tưởng rằng những nỗi khổ mà ta phải chịu là vì thần thánh phạt,
là do nhân bên ngoài, nhưng theo đức Phật thì ái dục mới là nhân sanh khổ. Vì vậy
nên Phật giáo là một giáo pháp tuyệt đối khác hơn các tôn giáo khác trong thời
kỳ ấy, mà cho đến nay nữa. Vì lẽ nầy nên tôi mới dám nói rằng, đức Thế Tôn tìm
thấy và dạy chúng ta một phương pháp tuyệt đối mới mẻ. Thời pháp đầu tiên mà ngài
thuyết tại vườn Lộc Giả về Tứ diệu đế đã làm cho 5 thầy Kiều-trần-như nhận thức
rõ rệt rằng ngài đã đắc quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác vì các vị ấy chưa từng
nghe ai dạy rõ rệt như vậy cả, và Tứ diệu đế vượt khỏi tầm hiểu biết của họ
cũng như người ta thời ấy.
Có điều đáng chú ý là: Nhân làm cho
sanh khổ. Khổ ấy không lựa một ai, nghèo thì khổ, giàu cũng khổ. Đức Thế Tôn dạy
nguyên nhân sanh khổ là ái dục.
(2)- Ái dục là gì?
Sự thật ái dục ngụ ý chỉ sự tham muốn.
Sự tham muốn ấy là nền tảng của tâm, và tất cả của chúng sanh ai ai cũng không
chạy khỏi, ngoại trừ các bậc A-la-hán, Độc Giác và Chánh Đẳng Giác. Tôi xin ví
dụ ái dục ấy như trái xoài. Trái xoài thì nó có tính chất riêng của nó, ấy là
mùi vị, hình dáng, màu sắc không thể lẫn lộn với trái quả khác. Bên trong nó có
một cái mầm, khi gieo ươm nó mọc thành cây xoài khác, trái xoài khác. Cái mầm ấy
chính là ái dục; và màu sắc, hình dáng, mùi vị của trái xoài chính là tham lam,
sân hận và si mê. Nếu ta dứt bỏ mầm thì không còn cây xoài, trái xoài; lại càng
không có màu sắc, hình dạng, mùi vị của trái xoài nữa. Cũng vậy, nếu dứt bỏ cái
mầm ái dục thì tham lam, sân hận, si mê cũng diệt theo!
Vậy, ái dục là gì?
Nếu ái dục là lòng ham muốn như mọi người thường hiểu - thì lòng ham muốn thành
Phật hoặc lòng ham muốn cứu nhân, độ thế có phải là ái dục chăng?
Ái dục có nghĩa là
muốn có cái gì không có, có rồi muốn cho có thêm. Trái lại muốn thành Phật thì
lại phải bỏ cái gì đã có và ngừa không cho những gì sanh ra. Khi thành Phật rồi
thì lại dạy chúng sanh buông bỏ tất cả những gì đã có cho thật hết.
(3)-
Ái dục có 3 loại:
1. Kāmataṇhā [24]: Ái dục trong cõi dục. Là muốn sanh làm con người giàu sang, quyền chức,
xinh đẹp, nên khi làm một việc phước thiện nào như bố thí đều nguyện vào cõi dục (đây kể cả 6 tầng trời dục giới).
2. Bhavataṇhā [25]: Ái dục trong cõi sắc. Cõi nầy không có dục vọng như vợ chồng, sự nghiệp,
danh vọng, tiền tài - kể cả tất thảy mọi vinh hoa của vật chất... nhưng còn có
sắc, một loại sắc rất tế vi. Hành giả tham thiền tinh tấn để mau đắc một trong
tứ thiền để sanh vào cõi 16 cõi trời sắc giới [26]. Tuổi sống của
cõi ấy lâu không nói năm được, chỉ có thể dùng tuổi của trái đất nầy mới ví được.
Cõi thấp nhất cũng bằng tuổi một phần ba trái đất. Và tuổi nhiều nhất là 16.000
kiếp trái đất. Vì sống quá lâu nên chư phạm thiên trong cõi nầy là an vui nhứt,
và thường bị vào thường kiến nên gọi là ái dục trong cõi sắc.
3. Vibhavataṇhā: Ái dục trong cõi vô sắc. Sự thèm muốn sanh
vào cõi vô sắc, nên hành giả cố hành cho đắc vào cõi này, nghĩ rằng vì có sắc
nên còn luân hồi, khi không còn sắc nữa, chính là Niết-bàn rồi? Vì vậy người
sanh vào cõi này thường rơi vào đoạn kiến.
Để biết rằng ái dục
tai hại đến bậc nào, tôi xin nhắc lại câu Phật dạy: Taṇhāponobhavika [27]:Ái dục tạo tác hiện tại.
Vì sự thèm khát
ngũ trần lục dục trong cõi dục, hay thèm khát sanh vào cõi sắc, hay vô sắc,
cũng vẫn là còn ái dục, chỉ khác nhau ở chỗ thô thiển hay vi tế thôi, nhưng
chung qui cũng vẫn phải trầm luân trong 3 cõi. Tóm lại, khi lòng người còn ái dục
dầu là vi tế hay thô thiển gì, cũng vẫn còn phải luân hồi.
Vì vậy nên đức Thế
Tôn dạy: Tập đế là nguyên nhân sanh khổ. Ta nên cố gắng dứt bỏ.
Trong hai Diệu đế
đầu khổ đế và tập đế; Khổ đế là điều ta cần phải hiểu cho thật rõ, nhưng không
có gì phải đối phó với nó, vì chỉ cần biết rõ thôi. Về Tập đế, điều ta cần phải
biết cho rõ là vì nguyên nhân nào mới sanh khổ, vì đâu đưa đến, ta biết cho thật
rõ nguyên nhân đặng cố diệt. Ví như người chữa lửa cần biết lửa bắt đầu cháy ở
đâu, chữa ngay chỗ ấy chớ không chữa ở ngọn lửa (ngọn lửa ấy ví như khổ hiện tại).
Về phương pháp diệt
ái dục, xin xem Diệt đế và Đạo đế sau đây.
Diệu đế thứ ba: Diệt đế
Diệt đế vào Đạo đế
là hai phương pháp diệt khổ, chỉ có mình đức Thế Tôn giác ngộ trước nhứt, là
pháp rất huyền diệu, người phải đoạt bằng tuệ nhãn chớ không thể biết bằng tâm
được. Ta có thể ví đó như hai vị thuốc để trừ hai thứ bịnh nan y là khổ và
nguyên nhân sanh khổ [28].
Ở trên tôi ví Khổ
và Tập với cọp, đức Thế Tôn đem cọp ấy về nhốt, ta quan sát hình dáng, tánh
cách và nhược điểm của nó để ta trừ hoặc tránh nó tùy trường hợp. Khi ta biết cọp
có những nhược điểm gì, hình dáng ra sao, thì ta tránh dễ dàng mà trừ nó cũng
không khó.
Muốn diệt trừ Khổ
đế và Tập đế ấy chỉ có Diệt đế và Đạo đế [29]
Đây là lời Phật dạy
về Diệt đế.
“- Nầy các thầy tỳ-khưu!
Đây là pháp diệt khổ thật sự, sự diệt các điều thèm khát, không có dư sót của
ái dục, dứt bỏ không còn dính dáng với ái dục, không còn bận bịu, không còn luyến
tưởng nữa”.
Lời Phật dạy cho
ta thấy rằng Diệt đế về dập tắt lửa ái dục, nhưng Phật nói nhiều tiếng khác
nhau để ta dễ hiểu. Trong Diệt đế, đức Phật đề cập đến Niết-bàn là nơi dập tắt
hẳn mầm của ái dục.
Hạnh phúc XXXIV dạy về pháp làm cho thấy rõ Niết-bàn, tôi xin
giải ở sau.
Diệt đế thứ tư: Đạo đế
Phật giáo có đến
tám muôn bốn ngàn chi pháp, nhưng chung qui chỉ có một cứu cánh là giải thoát.
Đạo diệu đế là
phương pháp diệt trừ ái dục. Trong kinh Chuyển pháp luân, Phật dạy muốn diệt ái
dục phải hành theo bát chánh đạo.
+
Sammādiṭṭhi: Chánh kiến.
“- Nầy các thầy tỳ-khưu!
Sự thực hành đến chỗ hết khổ là bát chánh đạo: Chánh kiến, chánh tư duy...
Trong bài kinh
Maggavibhaṅga, có nói rõ chánh kiến là:
1. Hiểu rõ khổ,
2. Biết rõ nhân khổ,
3. Biết rõ sự diệt
khổ.
4. Biết rõ phương
pháp hành để diệt khổ.
Theo đây, chúng ta
thấy chánh kiến là sự thấy chân chánh, nghĩa là thấy rõ pháp Tứ đế.
+
Sammāsaṅkappa: Chánh tư duy.
Chánh tư duy là:
1- Suy nghĩ về xuất
thế gian.
2- Suy nghĩ về
không oán thù
3- Suy nghĩ không
làm hại người.
Suy nghĩ xuất thế
gian là suy nghĩ về sự xuất gia. Đây có chỗ chú giải rằng người tại gia cư sĩ
không thể xuất gia được, thì thọ bát quan trai giới và cố niệm Phật, diệt trừ tộc
ác khi mình suy nghĩ, hoặc mình đã làm trong ngày. Ngoài ra, đừng suy nghĩ về sự
oán thù, hận thù hoặc nghĩ cách làm khổ người, hại người [30].
+
Sammāvācā: Chánh ngữ.
Chánh ngữ là:
1. Tác ý tránh xa
nói dối, nói sai sự thật.
2. Tác ý tránh xa
nói đâm thọc, hai lưỡi...
3. Tác ý tránh xa
nói hung dữ, độc ác, rủa, chửi...
4. Tác ý tránh xa
nói lời vô ích, tục tĩu, rỗng không...
+
Sammākammanta: Chánh nghiệp.
Chánh nghiệp là:
1. Tác ý tránh xa
sát sanh.
2. Tác ý tránh xa
trộm cấp.
3. Tác ý tránh xa
thông dâm.
Chánh nghiệp là việc
làm (về thân) chân chính, không phạm vào ba nghiệp bất
thiện ở trên. Đây còn có ý dạy ngay vào các hạng cư sĩ phải thọ trì ít nhất là
ngũ giới, hơn ấy nữa, là ráng tham thiền trong ngày, thọ thêm bát quan trai giới.
+
Sammā- ājīva: Chánh mạng.
Chánh mạng là dứt
bỏ sự nuôi sống tà mạng ở bậc thánh nhơn trong Phật giáo. Ngay các hàng cư sĩ tại
gia chân chánh cũng phải biết lựa chọn nghề nghiệp sinh sống.
Nuôi mạng chân
chánh ấy là:
1. Không bán thú,
trái lại phóng sanh.
2. Không bán người,
trái lại, cứu người khi lâm nạn.
3. Không buôn rượu,
không cho người rượu, trái lại, lo phương pháp nào có thể răn đời, như bố thí
pháp [31].
+
Sammāvāyāma: Chánh tinh tấn.
Chánh tinh tấn là,
thầy tỳ-khưu trong Phật giáo cố vun trồng sự tinh tấn không cho các pháp ác
chưa phát sanh có điều kiện để phát sanh, giữ tâm vững chắc không rung động vì
các hoàn cảnh bên ngoài, cố gắng diệt trừ các pháp ác đã có trong tâm cho cùng
tận, cố gắng làm cho các thiện pháp chưa phát sanh được sanh lên, cố gắng vun
trồng các thiện pháp đã có được tốt đẹp thêm [32].
+
Sammāsati: Chánh niệm.
Chánh niệm là, thầy
tỳ-khưu trong Phật giáo luôn luôn quán tưởng thấy thân trong thân, cố ý tinh tấn
thiêu đốt phiền não, có sự ghi nhớ và biết mình, diệt trừ sự vui, buồn; suy
nghĩ thấy thọ trong thọ... Nói tóm lại là tu tập tứ niệm xứ. Hay nói cho dễ hiểu
hơn, chánh niệm nghĩa là thực hành, tu tập theo Tứ niệm xứ [33].
+
Sammāsamādhi: Chánh định
Chánh định là, thầy
tỳ-khưu trong Phật giáo vắng lặng trần cảnh, vắng lặng các pháp ác, nhập vào sơ
thiền có tầm, sát (tứ), hỉ, lạc, định sau khi dứt bỏ tầm, sát,
thì đắc nhị thiền, từ từ dứt từng pháp thô thiển. Thầy tỳ-khưu cố tinh tấn hành
như thế gọi là chánh định.
Tóm lại: Chánh định
là phương pháp làm cho tâm người trở nên yên lặng khỏi ác pháp. Sự định tâm được
do một trong 40 đề mục của Phật dạy gọi là chánh định [34].
Bát chánh đạo ví như
chìa khóa mở cửa Niết-bàn.
Trong một phẩm
kinh, đức Thế Tôn có dạy:
“- Người nào thấy
rõ Khổ đế là thấy rõ Tập, Diệt và Đạo đế. Người nào thấy rõ Tập đế thì thấy rõ
Khổ, Diệt và Đạo đế. Người nào thấy rõ Diệt đế là thấy rõ Khổ, Tập và Đạo Đế.
Người nào, thấy rõ Đạo Đế là thấy rõ Khổ, Tập và Diệt đế”.
Tóm lại: Người mà
giác ngộ được thánh quả không phải chỉ học hay nghe pháp, hay giải thông được
pháp Tứ diệu đế, là được thánh quả, mà phải thấy rõ rằng trí tuệ, hay thấy rõ bằng
tuệ nhãn.
Để chứng minh rõ sự
thật là thế nào tôi xin đem lời Phật ví dụ để quí vị thấy rõ hơn:
Thí dụ thứ nhất
Khổ đế ví như chứng
bệnh của chúng sanh.
Tập đế ví như căn
bệnh của chúng sanh.
Diệt đế ví như đã
lành bệnh.
Đạo đế ví như
phương thuốc trị bệnh của chúng sanh.
Thí dụ thứ hai
Khổ đế ví như món
đồ nặng đang vác.
Tập đế ví như
nguyên nhân bắt buộc phải mang vác những vật nặng ấy.
Diệt đế ví như sự
liệng bỏ vật nặng ấy.
Đạo đế ví như
phương pháp liệng bỏ vật nặng ấy.
Thí dụ thứ ba
Khổ đế ví như người
có oán thù.
Tập đế ví như nguyên
nhân của sự oán thù.
Diệt đế ví như đã
cởi mở được oán thù.
Đạo đế ví như
phương pháp cởi mở oán thù ấy.
Thí dụ thứ tư
Khổ đế ví như cây
có thuốc độc.
Tập đế ví như chất
độc nằm trong rễ cây.
Diệt đế ví như sau
khi đã lấy hết chất độc.
Đạo đế ví như
phương pháp để lấy hết chất độc trong rễ cậy.
+
Muốn đắc đạo quả Tứ thánh và Niết-bàn thì phải quán triệt
Tứ diệu đế, chỉ có một phương pháp là hành minh sát tuệ. Khi hành minh sát thì
có 16 tuệ trí phát sanh là:
1.
Nāmarūpaparicchedañāṇa: Danh sắc phân biệt trí - tức là trí thấy rõ danh sắc và phân biệt được
đâu là danh, đâu là sắc [35].
2. Udayañāṇa: Sanh
trí - là trí thấy rõ mỗi danh, mỗi sắc có nguyên nhân sanh khởi
như thế nào [36].
3. Vayañāṇa: Diệt
trí - trí thấy rõ sự diệt mất của mỗi danh, mỗi sắc như thế nào [37].
4. Udayabbayañāṇa: Sanh diệt trí - trí thấy rõ sự sanh diệt của
mỗi danh, mỗi sắc [38].
5. Bhaṅgānupassanañṇa:
Đoạn diệt quán tưởng trí - Ở đây, hành giả không chú tâm đến sự sanh của danh, sắc pháp - chỉ chú tâm đến sự diệt của danh, sắc pháp [39].
6. Bhayañāṇa: Kinh
hãi trí - trí thứ 5, thấy rõ sự diệt mất liên tục của mỗi danh, mỗi sắc; trí thứ 6,
thấy chúng biến hoại và rã tan một cách kinh khiếp nên đâm ra sợ hãi cả ba cõi
dục, sắc và vô sắc.
7. Ādinavañāṇa: Hiểm
nguy trí - trí thấy rõ sự nguy hiểm và thống khổ của danh sắc - được ví như rắn độc,
như lửa, như tên sát nhân, như mũi tên độc...
8. Nibbidāñāṇa:
Nhàm chán trí - Đâm ra nhàm chán nơi mỗi danh, mỗi sắc - nhờ vậy, ly thoát được sự tham
lam, đam mê, chấp thủ nơi mỗi danh, mỗi sắc.
9. Muñcitukamyatāñāṇa:
Dục giải thoát trí - trí muốn giải thoát ra khỏi sự ràng buộc của mỗi danh, mỗi sắc [40].
10. Paṭisaṅkhāñāṇa:
Phân tích trí - Trí phân tích để thấy rõ lại một lượt nữa - sự sanh diệt của danh sắc thật
đáng kinh sợ, đầy những nguy hiểm, đáng nhàm chán, cần phải thoát ly; phải thấy
rõ các trạng thái vô thường, khổ não, vô ngã của danh sắc ấy.
11. Saṅkhārupekkhāñāṇa:
Hành xả trí - trí giữ được tâm bình đẳng, vô tư, trạm nhiên đối với các pháp hữu vi (danh sắc); không tham ái cũng như không chán ghét
chúng - nên gọi là hành xả [41].
12. Anulomañāṇa:
Thuận thứ trí - tức là trí thuận với các trí đi trước, thuận với các trí đi sau thuộc
thánh đạo tâm - trong đó có đạo đế, tức bát thánh đạo.
13. Gotrabhūñāṇa:
Chuyển tánh trí - từ bỏ phàm phu tánh để bước vào thánh tánh - đối tượng bây giờ không còn là
danh sắc nữa mà đề mục đã là Niết-bàn.
14. Maggañāṇa: Đạo
trí hay thánh đạo tuệ - Đây là tuệ xuất tam thế, chỉ khởi lên 01
sát-na rồi diệt.
15. Phalañāṇa: Quả
trí hay thánh quả tuệ - Đây là trí thấy Niết-bàn lần thứ nhất trong đời - nó chỉ
khởi lên 02 sát-na rồi diệt. Tuy nhiên, những bậc thánh có đắc định, có thể
chuyển quathánh quả định lộ trình tâm để
giữ thánh quả tâm phát sanh liên tục vô số sát-na suốt trong thời gian trú
thánh quả định [42].
16.
Paccavekkhanañāṇa: Quán sát trí - Đây là loại trí sau cùng, có phận sự xem xét lại, quan
sát lại sự chứng đắc thánh đạo và thánh quả của mình [43].
Tóm lại, như đức
Phật dạy: Người còn luân hồi là vì chưa thấy Tứ diệu đế bằng tuệ nhãn. Vậy, người
thấy rõ Tứ diệu đế bằng tuệ nhãn như trên sẽ lần lượt chứng đắc tứ thánh đạo quả
và Niết-bàn, được giải thoát khỏi vòng luân hồi tử sinh thống khổ và phiền não.
+ Thấy rõ Tứ diệu
đế sẽ được những hạnh phúc là:
1. Làm cho thấy rõ
danh và sắc.
2. Không còn si mê
trong phiền não và khổ đau nữa.
3. Làm cho giải
thoát khỏi bể khổ luân hồi.
4. Làm cho đắc được
đạo quả.
5. Đưa ra khỏi
vòng sanh tử luân hồi.
6. Không còn trong tam giới.