HẠNH
PHÚC XVII
Ñātisaṅgaho: Giúp đỡ quyến thuộc
1. Quyến thuộc là
gì?
2. Sự giúp đỡ quyến
thuộc như thế nào?
3. Hạnh phúc sanh
lên là do sự giúp đỡ quyến thuộc như thế nào?
(1)
Quyến thuộc là gì?
Cha mẹ, vợ, con là
ba hạng người thân nhau nhứt và gần nhau hơn hết, nhưng không gọi là quyến thuộc,
không thể gọi là bà con được, vì nó có tình nghĩa sâu nặng hơn quyến thuộc. Có
một giới hạn riêng về các loại tình cảm này.
+
Quyến thuộc, có thể nói là có hai hạng:
a. Quyến thuộc là những
người cùng một dòng huyết thống, tông tộc.
b. Quyến thuộc là những
người cùng theo một tôn giáo - theo nghĩa rộng.
Đức Phật đã dạy sự
tiếp độ quyến thuộc là một hạnh phúc. Tuy nhiên, ta phải biết phương pháp giúp
đỡ, chẳng nên giúp đỡ mà thiếu suy nghĩ hay vì lòng tự ái của mình. Đức Phật
giáo giới là giúp đỡ quyến thuộc, nhưng ta phải biết rõ điều lợi hại cho mình
và cho quyến thuộc của mình, chớ đừng làm một cách thiếu suy nghĩ.
+ Đức Phật đã
từng thực hành ba điều:
1.
Lokatthacariyā: Giúp
đỡ người đời.
2.
Ñātatthacariyā: Giúp
đỡ quyến thuộc
3.
Buddhatthacariyā: Giúp
đỡ Phật tử.
Đức Thế Tôn giúp người
đời bằng cách dạy người đời phải giúp đỡ nhau, thương yêu nhau và đừng làm điều
gì oan trái, oán thù mà hại nhau, hãy xem nhau như quyến thuộc, không nên phân
biệt giai cấp và chủng tộc.
Ngài giúp đỡ Phật tử
bằng cách dạy họ phải hành đúng theo con đường thuận thứ: Cõi người, trời rồi mới
đi đến nơi giải thoát, chấm dứt khổ đau. Lắm khi đức Phật đến thăm các vị tỳ-khưu
bị bịnh - như chính tay ngài tắm rửa săn sóc vị đại đức tên là Grinanda. Ngài
đi hóa độ những người hữu duyên - như tên sát nhân hung tàn nhứt trong thời đó,
là Vô Não; y đã xách gươm rượt Phật cả 3 do tuần - mỗi do tuần 16 cây số ngàn -
vẫn được ngài hóa độ trở nên một vị A-la-hán.
Còn đối với quyến
thuộc, sau khi xuất gia, ngài không còn lưu luyến và cũng chẳng màng gì đến sự
giúp đỡ của quyến thuộc, vì ngài đã thoát vòng của thế tục. Nhưng đức Phật cũng
không bỏ quyến thuộc, khi biết hai họ - Koliya là họ mẹ và Sākya là họ cha - vì giành lấy dòng nước mà đem
binh ra đánh nhau; ngài đã ngự đến thuyết pháp, khuyên hai họ bỏ chuyện hận thù
gươm giáo. Lần khác, biết rằng thái tử Viḍūḍabha sẽ đem binh về tiêu diệt giòng
Thích-ca, đức Phật mới ngự đi ngăn cản ba lần; đến lần thứ tư, ngài không ngăn
cản nữa vì biết rằng oan trái của hai bên rất nặng, cái nghiệp dữ đã đến với họ.
Nếu có người hỏi: Đã
nói rằng, Phật là đấng thông hiểu cả mọi việc, vậy ngài đã biết là không thể
ngăn cản được, tại sao phải mất công đi ngăn chặn tới 3 lần? Dĩ nhiên, đức Phật
biết rõ như thế, nhưng ngài phải để lại một tấm gương, một bài học là lo cho
quyến thuộc, ngăn ngừa tai họa cho quyến thuộc hết mình. Bài học thứ hai là
không ai có thể tránh khỏi quả dữ của nghiệp khi nghiệp ấy đến thời trổ quả -
dù năng lực thần thông siêu nhiên của đức Chánh Đẳng Giác cũng phải bất lực, bó
tay! Mỗi người hãy tự cứu mình!
Khi ta suy nghĩ kỹ lại,
thì sự giúp đỡ quyến thuộc của đức Phật trong trường hợp này hàm tàng nhiều ý
nghĩa, nhưng nổi bật là: Ngài giúp quyến thuộc là một chuyện và cái nghiệp của
quyến thuộc lại là chuyện khác.
+ Theo Phật
giáo, có 4 cách giúp đỡ quyến thuộc rất hiệu quả sau đây:
1.
Dāna: Giúp
đỡ vật chất như tiền của, cơm nước, y phục, thuốc men, nhà cửa; không để cho
quyến thuộc phải cực khổ vì thiếu thốn trong mọi nhu cầu sinh hoạt.
2.
Piyavācā: Lời
nói êm dịu, thương mến, hòa nhã. Ý nói khi nào mình giàu sang, có quyền chức, đối
với quyến thuộc, phải một mực thương yêu, không vì lẽ có quyền chức giàu sang
mà khinh khi quyến thuộc, nói lời bất nhã.
3.
Atthacariyā: Ráng
giúp đỡ quyến thuộc được nhiều lợi ích hợp pháp, đúng đắn, chơn chính... Ý muốn
nói, khi quyến thuộc gặp tai nạn, ta nên giúp của cải, nhu cầu tùy theo sức
mình - nhưng sự giúp đỡ ấy không có hại cho mình mà quyến thuộc thì được lợi lạc,
an vui thật sự.
4.
Samatta: Chữ Pāḷi này, danh từ có nghĩa là sự bình đẳng, bằng nhau; tính từ có nghĩa là đầy đủ, trọn vẹn. Nhưng
theo văn cảnh thì có nghĩa là phải biết kính trọng bậc trưởng thượng, thương
yêu người nhỏ, nể nang người ngang hàng với mình, không hống hách hay khi dể,
coi thường quyến thuộc.
Tóm lại, theo đức Phật
dạy, có hai cách giúp đỡ quyến thuộc sau đây:
-
Amisasaṅgaha: Giúp
đỡ tài chánh, vật chất.
-
Dhammasaṅgaha: Giúp
đỡ bằng cách khuyên lơn quyến thuộc bỏ dữ về lành, tu hành theo chánh pháp để
an vui và hạnh phúc nhiều đời, sau đó là chấm dứt luân hồi khổ.
+ Giúp đỡ
quyến thuộc sẽ hoạch đắc những điều hạnh phúc như sau:
1. Đại phước cho
mình.
2. Quyến thuộc nhớ đến
mình luôn luôn.
3. Càng ngày càng gần
gũi với quyến thuộc.
4. Quyến thuộc kính
mến.
5. Quyến thuộc càng
ngày càng đoàn kết chặt chẽ.
6. Sự thương yêu lẫn
nhau càng ngày càng gia tăng.
7. Đó là pháp cao
thượng trong Phật pháp.
8. Đó là việc làm của
các bậc trí thức
9. Đó là gương mẫu
cho kẻ hậu sanh.
10. Là con đường đi
của các bậc trí thức.
11. Là con đường đi
đến thiên đàng.
12. Không còn oan
trái và kinh sợ.
13. Lợi ích cho mình
trong kiếp này và vị lai.
14. Là duyên đưa đi đến an lạc.
15. Cũng là nhân duyên cho con đường Niết-bàn về sau.
Tích xưa về sự bảo vệ quyến thuộc
“- Thời quá khứ, đức Bồ Tát sanh làm chó Chúa ở ven rừng
gần thành Bārāṇasī.
Ngày nọ, đức vua Bārāṇasī ngự xem vườn thượng uyển bằng
xe ngựa. Tối về, người xa phu để xe ở trước sân mà quên cất yên ngựa và các đồ
đai da phụ tùng. Đêm ấy trời mưa to, những con chó săn của vua ở trong cung mới
cắn đứt và ăn hết tất cả các đồ đai da phụ tùng ấy. Sáng ngày, người xa phu thấy
vậy lấy làm kinh sợ, mới vào tâu với vua rồi đổ tội cho những con chó ngoài
thành lén vào và làm việc tày trời ấy. Đức vua cả giận, không truy hỏi nguồn
cơn, truyền lệnh cho quân lính lùng sục khắp nơi - hễ thấy chó là giết, bất kể
chó ấy của ai, ở đâu.
Chó Chúa lúc ấy ở ven rừng, cai quản một đoàn chó mấy
ngàn con - thấy quyến thuộc của mình bị thảm sát, bị giết một cách tàn ác và đã
chết rất nhiều, mới nghĩ rằng: “Ta phải làm sao để cứu giúp quyến thuộc thoát
khỏi tai nạn này”. Rồi chó Chúa phát nguyện pháp ba-la-mật, cầu xin phước báu để
vượt qua vòng cương tỏa của quân binh ở các cổng thành. Phát nguyện xong, khởi
năng lực của tâm từ, chó Chúa liền chạy một mạch đến vương cung vào gặp vua mà
không bị ai phát hiện. Trông thấy chó Chúa - do phước tướng cao sang, uy nghi
và năng lực của tâm từ - đức vua liền phát sanh thiện cảm, nên không cho ai đụng
đến chó rồi phán hỏi lý do.
Chó chúa kính cẩn quỳ xuống, lễ phép thưa:
- Tâu Đại vương! Có phải ngài đã ra lịnh tru diệt hết tất
cả loài chó trong quốc độ không?
Đức vua đáp:
- Phải, ta có ra lịnh ấy, vì tội của chúng là dám vào
hoàng cung cắn xé và nhai nuốt toàn bộ yên cương, đai da trang điểm quý báu của
ta!
Chó Chúa tâu:
- Bạch Đại vương! Thật sự là ngài có thấy rõ, biết rõ những
con chó nào đã ăn những đồ vật ấy chăng?
Đức vua đáp:
- Không, ta chỉ nghe tên xa phu nói lại!
Chó Chúa hỏi tiếp:
- Vậy, xin thưa, người xa phu ấy chắc là đã tận mắt mình
thấy, mình biết - phải thế không, Đại vương?
Đức vua trầm ngâm:
- Đêm ấy mưa to gió lớn nên có lẽ y chỉ suy luận, phỏng
đoán mà thôi!
Đến ngang đây, chó Chúa chợt cất giọng uy nghiêm như một
vị quan tòa:
- Là một bậc nhân chủ, là một vị minh quân - lẽ nào khi
chưa thấy rõ, biết rõ, lại dựa trên sự phỏng đoán, suy luận của một người xa
phu - mà đại vương lại ra nghiêm lệnh giết tất cả loài chó trong thiên hạ? Hành
động ấy là chơn chánh hay không chơn chánh? Là công lý hay không phải công lý?
Là đúng pháp hay không đúng pháp, tâu Đại vương!
Đức vua sợ hãi, trán toát mồ hôi, không thốt được một lời
trước những câu hỏi nghiêm khắc, nặng tợ ngàn cân ấy!
Chưa thôi, chó Chúa buộc tội tiếp:
- Như thế, chứng tỏ đại vương chưa có đủ 10 vương pháp trị
dân - lại còn rơi vào bốn pháp thiên vị rất nguy hiểm nữa - ấy là thiên vị vì
thương, thiên vị vì giận, thiên vị vì si mê, thiên vị vì sợ hãi. Nếu 10 vương
pháp trị quốc mà không đầy đủ hoặc khiếm khuyết thì kỹ cương, triều chính sẽ
không ổn định, muôn dân theo đó sẽ lầm than, đau khổ. Còn nếu theo 4 pháp thiên
vị mà hành động - thì chính đức vua sẽ rơi đọa vào các cảnh giới ác đạo, tối
tăm và đau khổ, nhà vua có biết chăng?
Đức vua toát mồ hôi lạnh. Sau đó cảm thấy mình học được
bài học ngàn vàng về phép trị nước, lấy làm hoan hỉ, trong sạch với chó Chúa
nên bình tĩnh hỏi rằng:
- Này vị trí thức! Thế ngài có biết chó nào đã cắn và đã
nhai nuốt yên cương, đai da phụ tùng ấy không?
- Tâu Đại vương! Sự thật thì chó ngoài thành không thể
vào trong cung nội - ngày đêm được canh phòng cẩn mật - để ăn những vật dụng ấy.
Thủ phạm chính là những con chó săn của bệ hạ. Nếu Hoàng thượng còn nghi ngờ,
xin lấy mỡ rồi đâm cỏ may trộn vào cho chó trong cung ăn thì chúng sẽ mửa ra lập
tức đồ bằng da ấy. Tại sao vậy, vì những đai da được trui thuộc công phu, kỹ
càng, ở trong bụng chó 5, 7 ngày vẫn chưa tiêu hóa được!
Đức vua lập tức truyền cho thị thần làm y như lời thì rõ
ra chó trong cung nội đã ăn những đai da ấy.
Đức vua xiết bao cảm kích, mời chó ngồi lên trên ghế và
cúng dường như một nhà sư.
Chó Chúa mới thuyết rằng:
- Tâu Đại vương! Xin ngài hãy hành theo thập thiện và phụng
dưỡng mẹ cha, làm như thế mới gọi là cao thượng.
Sau đó, chó Chúa mới khuyến khích đức vua thọ trì ngũ giới.
Xong, chó chúa về rừng. Nhà vua truyền ân xá tội cho chó. Và từ ngày ấy đức vua
lo hành theo ngũ giới, thập thiện, cai trị quốc độ bằng 10 vương pháp”.
Tích này ngụ ý khuyên ta nên giúp đỡ quyến thuộc lúc lâm nguy, nên hy
sinh và bất cứ giờ phút nào ta có thể giúp được, nên giúp liền. Đó là con đường
đi của các bậc trí thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét