Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

38 pháp Hạnh phúc-14-HỌC THÔNG ĐƯỢC LUẬT

HẠNH PHÚC IX

Vinayo ca susikkhito: Học thông được luật
(Khéo học tập, thông suốt luật nghi)

 Muốn học thông luật cần phải phân tách 3 điểm trong luật:
1. Trạng thái của luật
2. Sự quan trọng của luật
3. Luật là nguyên tắc sống đẹp, lành mạnh để người hành theo.
Ai ai cũng biết rằng luật [22] là những điều cấm không cho người vi phạm, do nơi nhiều vị trí thức hợp đồng soạn thảo ra, để mọi người trong một xã hội thực hành theo, để đem an vui lại cho xã hội. Do vậy, luật không phải do một người có toàn quyền quyết định trong một nhóm, phe phái hay một xã hội độc tài chuyên chế nào đó với những điều lệ hay những pháp lệnh độc đoán.
Ai ai cũng biết rằng chúng ta mỗi người đều có thể có 2 lối đi là: Đường đời và đường đạo - vì mỗi người trong chúng ta có hai thành phần quan trọng là thân và tâm. Thân nầy sanh ra trong đời và sống trong đời, trưởng thành trong đời và sống trong đời. Tâm của chúng ta cũng vậy. Nhưng tâm phải sống trong khuôn khổ của luân lý, đạo đức là luật của đạo, của đức lý chung chung; còn như thân thì phải tùy thuộc kỷ luật, pháp luật - tức là luật của đời.
Tất cả nhân loại sanh ra trong cõi ta-bà nầy đều phải bị chi phối bởi nhiều luật tắc. Nếu là người tại gia cư sĩ, thì phải tuân theo mọi quy định của pháp luật nơi quốc độ mà mình đang sống. Nếu là người có tôn giáo thì còn tuân theo luật tắc, giới điều của tôn giáo ấy nữa. Riêng với Phật giáo - thì giới điều dành cho những cư sĩ tại gia là ngũ giới hay bát quan trai giới. Nếu người nào chỉ biết giữ theo luật của chánh phủ, nhưng không biết luật của tôn giáo - thì người ấy được gọi là người vô tín ngưỡng; có thể họ là người sống theo duy vật, theo chủ thuyết hư vô hoặc đoạn diệt luận! Riêng đạo Phật, nếu họ sống theo luật đời, chấp hành, tuân thủ luật đời mà không tin Phật, tu Phật thì người ấy có thể tránh được cho mình những điều phiền lụy về thể xác, phần thân; nhưng họ sẽ không có được đời sống tinh thần thanh cao, hướng thiện, hướng thượng trong kiếp nầy và luôn cả kiếp vị lai.
Vì vậy nên có câu Phật dạy rằng:
“- No ce assa buddhi
Vinayo vā susikkhito
Vane andhamahīsova
Careyya bāhuko naro”
Nghĩa là: Thái độ sống, mọi hành động của nhân loại mà không có luật bắt buộc họ phải thực hành theo, thì không khác nào bầy bò đui mà đi trong rừng rậm.
Nơi đây tôi xin đề cập riêng về luật của đạo. Theo Tam tạng kinh của đức Thế Tôn đã giáo truyền thì luật ấy được chế định chia ra làm 2 bộ:
1. Agāriyavinaya: Luật của người tại gia.
2. Anāgariyavinaya: Luật của người xuất gia.

Luật của người tại gia

Người tại gia là người còn trong gia đình chưa có thể hay là không thể bỏ gia đình để đi theo phẩm hạnh của các bậc xuất gia, nên đức Phật có ấn định giới luật cho hàng cư sĩ. Luật ấy gồm có 10 điều chế ngự thân, khẩu, ý. Mười điều luật ấy có khi gọi là thập thiện đối lại với thập ác. Thập ác là mười điều ác chia ra làm 3 loại là:
- 3 điều ác do thân tạo ra: Sát sanh, trộm cướp, tà dâm.
- 4 điều ác do khẩu tạo ra là: Nói dối, nói đâm thọc, nói ác và nói lời vô ích.
- 3 điều ác do ý (tâm) tạo ra là: Tham lam thái quá, oán thù và tà kiến.

+ Mười điều ấy xin lần lượt giảng giải theo thứ tự sau đây:

1. Sát sanh (Pāṇātipātā): Là cố ý giết hay là xúi kẻ khác giết người hoặc động vật có sự sống.
Nếu giết thú nhỏ, thức tánh sơ khai - thì tội ít, còn thú lớn, thức tánh phát triển - thì tội nặng; nếu giết người thì tội càng nặng hơn. Nếu người sát sanh có đủ 5 chi phần sau đây mới gọi là sát sanh:
- Pāṇa: Thấy có một chúng sanh.
- Pansannīta: Biết rằng chúng sanh ấy có thức tánh (Có hơi thở, có sự sống).
- Vadhakacittaṃ: Khởi tâm, cố ý giết hại.
- Upakkama: Cố gắng tìm cách giết chúng sanh ấy.
- Tena maraṇaṃ: Đã giết chúng sanh ấy bằng nỗ lực của chính mình.
Nếu thiếu một chi phần nào, thì người giết hại không gọi là phạm tội sát sanh, nhưng giới bất sát của người ấy không được trong sạch [23].
2. Trộm cướp (Adinnādānā): Có tác ý trộm cướp khi biết rằng món đồ cướp ấy có chủ, chủ không bằng lòng cho mà vẫn cố ý cướp hay lấy về cho mình. Tội trộm cướp nặng hay nhẹ là tùy theo của ít hay nhiều, giá trị cao hay thấp; và cũng tùy theo người bị cướp ấy là kẻ xấu ác hay là người lương thiện, có giới hạnh. Dĩ nhiên là cướp của người có đạo đức, giới hạnh thì tội nặng hơn.

+ Người hoàn toàn phạm vào tội trộm cướp là khi nào người phạm đủ năm chi phần sau đây:

- Parapariggahitaṃ: Tài sản, của cải của người khác.
- Parapariggahitasannitā: Biết rằng tài sản, của cải ấy là có chủ gìn giữ.
- Theyyacittaṃ: Khởi tâm, cố ý lấy cắp, trộm cướp vật đã có chủ ấy.        
- Upakkama: Tìm mưu kế, cố nỗ lực để lấy cắp vật ấy cho bằng được.
- Tenaharaṇaṃ: Đã trộm cướp được là nhờ vào sự nỗ lực và mưu kế ấy.
3. Tà dâm (Kāmesumicchācārā): Dịch từ tiếng phạn là kāma [24], nghĩa là sự mơ ước. Tiếng nầy thường được dịch là trần nhưng nơi đây phải dịch là dâm. Dâm có hai trường hợp: Phạm tội, và không phạm tội.
- Sadārasantoso: Ăn ở với vợ nhà là không phạm tội.
- Paradāragamana: Ăn ở với kẻ khác (vợ người khác) là phạm tội.
Tà dâm là một điều mà các vị thiện trí thức, nhứt là đức Phật hằng chê bai là pháp thấp hèn làm cho chúng sanh tội lỗi và đau khổ trong luân hồi.

 + Phật giáo cấm phạm dâm đến 20 hạng người, gọi là Agamaniyatthāna: Người bất khả xâm phạm.

1. Māturakkhitā: Người con gái còn có mẹ giữ gìn.
2. Piturakkhitā: Người con gái còn có cha giữ gìn.
3. Mātāpiturakkhitā: Người con gái còn có cha mẹ giữ gìn.
4. Bhāturakkhitā: Người con gái còn có anh gìn giữ, nghĩa là người đã mất cha mẹ, hoặc còn mà phải ở với anh, anh có phận sự gìn giữ.
5. Bhaginīrakkhitā: Người con gái còn có chị hay em gái gìn giữ.
6. Natirakkhitā (?): Người phụ nữ có quyến thuộc gìn giữ.
7. Gottarakkhitā: Người phụ nữ còn có người trong họ hàng gìn giữ.
8. Dhammarakkhitā: Người phụ nữ có pháp gìn giữ - nghĩa là người phụ nữ xuất gia ở trong giới luật, còn có nhiều người cùng đạo gìn giữ.
9. Sārakkhā: Người phụ nữ đã có chồng hay người đi hỏi rồi - - là người đã được bảo vệ.
10. Sāpattika: Người phụ nữ phạm luật nước, nghĩa là người phụ nữ bị nhà chức trách không cho hành động theo ý muốn của mình, hoặc cho người nam đến giao tiếp.
11. Dhanakkita: Người phụ nữ đã có người mua đổi bằng tiền của, dầu nhiều hay ít.
12. Chandavāsinī [25]: Người phụ nữ theo trai, người đàn ông bằng lòng đem về nhà làm vợ.
13. Bhogavasī [26]: Người phụ nữ ưng làm vợ người vì tiền, nghĩa là người phụ nữ ấy ưng làm vợ của người nam vì một số tiền dù ít hay nhiều.
14. Paṭavasī [27]: Người phụ nữ ưng làm vợ người vì y phụ nghĩa là chịu lãnh một số y phục để về làm vợ.
15. Odapattakini [28]: Người phụ nữ bằng lòng để cho người khác đem bàn tay mình để vào bàn tay người nam, rồi nhúng vào chậu nước mà nói rằng: Hai người hãy ở với nhau như nước nầy, không bao giờ chia rẽ nhau. Đây là phép cưới ngày xưa của Ấn Độ.
16. Chatakumbhatā. Người phụ nữ đội trên đầu nhờ người nam để xuống rồi người ấy đem về làm vợ.
17. Dāsī ca bhariyā ca: Người phụ nữ đã làm tớ gái mà cũng là làm vợ, nghĩa là trước kia là nô tỳ sau này lại ở với ông chủ.
18. Kammakārī ca bhariyā ca: Người phụ nữ làm công mà cũng làm vợ.
19. Dhajāhaṭa: Người phụ nữ bị quan quân bắt về, nghĩa là nữ tù binh.
20. Muhuttikā (?): Người phụ nữ có tình với người nam (như vợ bé thời bây giờ).
Người nam không được xâm phạm đến 20 hạng nữ kể trên; còn người nữ khi biết mình thuộc về 20 hạng ấy mà còn ngoại tình thì được gọi là tà dâm.
Cũng như hai giới trước, giới tà dâm nếu phạm vào người ít đức thì tội nhẹ, bằng phạm vào người có nhiều giới đức thì tội lại nặng.
Giới tà dâm có 4 chi phần để cho người biết mình có phạm giới hoặc giới bị nhơ đục hay không.
- Aga naniyavatthu (?): Người mà ta không nên hành dâm (20 hạng phụ nữ đã kể trên).
- Tasmin sevanacittaṃ: Tâm muốn hành dâm với người không nên hành dâm.
- Sevanappayogo: Cố gắng tìm cách hành dâm.
- Maggena maggappaṭipatti adhivāsanā: Đã hành dâm được do sự cố gắng ấy.
Trong ba giới sát sanh, trộm cướp, tà dâm kể trên, tuy đều có ý tham dự - nhưng khi phân tích tội thì chúng đều thuộc về thân - thân nghiệp. Luật chưa bắt tội tâm vì nếu tâm chỉ toan tính mà điều ác chưa thi hành, thì nhân vật mà tâm tính hại ấy thực tế vẫn chưa bị hại (vì sự suy nghĩ ác của tâm).
4. Nói dối (Musāvādā): Theo chú giải thì tội nói dối không chỉ do khẩu (bằng miệng) - mà phải tính luôn khi thân, tay, chân ra dấu hiệu hoặc dùng thư từ để dối gạt người khác nữa. Ngoài ra, sau khi đã nói dối, người khác hỏi đến, do sợ tội nên tìm cách chối quanh - cũng không thoát khỏi tội nói dối; bằng thú nhận thì sợ bị hành phạt, cứ nín thính, như vậy cũng phạm tội nói dối.
Nói dối nếu hại ít người thì nhẹ tội, bằng hại nhiều người thì nặng tội.

+ Nói dối có bốn chi phần là:

- Atthaṃ vatthu: Chuyện, nhân hay vật không thật.
- Visaṃvāyamacittaṃ: Tâm muốn nói sai sự thật.
- Tajjovāyama: Cố gắng nói sai sự thật theo ý muốn.
- Parassa tadatthavijānānaṃ: Đã làm cho người khác tin theo, biết rõ chuyện không thật mà mình đã nói ấy.
5. Nói đâm thọc, ly gián (Pisuṇāya vācāra): Con người bị sự tham lam, sân hận, si mê làm mờ ám - thường mưu toan làm cho những kẻ đang thương yêu quý mến nhau phải chia rẽ nhau, thù oán nhau cho bõ ghét, cho đã lòng oán hận hoặc là để cầu thân với bên nầy đặng trả oán bên kia. Thái độ ấy gọi là pisuṇāyavācāra, tức là nói đâm thọc, ly gián nhằm chia rẽ người khác.
Lời nói đâm thọc, chia rẽ người có giới đức ít, thì nhẹ tội, bằng người có đức hạnh cao thì tội nặng. Còn nếu nói đâm thọc mà không có kết quả chi cả (tội chưa được thành lập) thì tội ít.

+ Nói đâm thọc, ly gián có bốn chi phần là:

- Bhinditabbo paro: Người có thể chia rẽ.
- Bhedapurekkhārātā vā piyakamyatā: Ý muốn chia rẽ, hoặc muốn cho một bên thân thiện với mình.
- Tajjo vāyama: Đã nỗ lực, cố gắng để chia rẽ, ly gián.
- Tadatthavijānānaṃ: Đã có kết quả, đã làm cho hai bên biết rằng họ ghét nhau và đã thành công trong sự mưu toan ly gián ấy.
6. Ác ngữ (Pharusāya vācāya): Là nói lời cay độc, độc ác, hung dữ...
Chú giải có dạy rằng: Khi ta giận hờn nguyền rủa và trù ẻo kẻ khác cho bị tai nạn, nói những điều xấu của kẻ khác làm cho người ta mất danh giá, ấy là ác ngữ.
Riêng về phần cha mẹ chửi rủa con, không gọi là ác ngữ, vì mặc dầu ngoài miệng chửi rủa mà trong lòng thương yêu không muốn cho con bị tai nạn theo lời rủa của mình. Như có tích sau đây:
“- Có một thanh niên kia cãi lời mẹ đi chơi trong rừng, bà mẹ sợ con bị tai nạn, ngăn cản không được, mới rủa: “Mầy đi sẽ bị trâu rừng dữ rượt mầy”.
Người con vào rừng bị trâu rừng rượt thiệt. Nhắm không thể nào chạy khỏi, người ấy mới phát nguyện rằng: “Khi tôi ra đi, mẹ tôi có rủa tôi, nếu mẹ tôi có ác ý muốn cho tôi chết, tôi xin chịu chết; bằng mẹ tôi chỉ hăm dọa cho tôi sợ, xin cho tôi thoát nạn”. Người thanh niên vừa dứt nguyện, trâu rừng tự trở lui không hại người thanh niên ấy”.
Tích nầy cho thấy rằng dầu lời nói ác nhưng tâm không ác, thì không hoàn toàn là ác ngữ. Tuy nhiên, đấy là trường hợp đặc biệt mà người mẹ phải sử dụng để đối trị với đứa con cứng đầu. Bất cứ trong trường hợp nào, đã là người tu Phật thì không nên nói lời độc ác, hung dữ hoặc nhiếc mắng, nguyền rủa kẻ khác - nó chính là thuộc độc làm cho ô nhiễm tâm trí chúng ta.
Cũng tương tợ như các giới trên, ác ngữ với người thấp hèn, ngu si không có giới đức thì tội ít, bằng với người hiền lương, có giới đức thì tội rất nặng.
+ Ác ngữ có ba chi phần là:
- Akkositabbo: Có kẻ khác để ta chửi, mắng.
- Kujjhanacittaṃ: Tâm ta giận
- Akkosanā: Đã chửi rủa xong.
7. Lời nói phù phiếm (Samphappalāpa): Tức là nói ba cái chuyện tào lao, chuyện bậy bạ, chuyện tiếu lâm, chuyện vô ích, chuyện rỗng không...

+ Giới nầy có hai chi phần là:

- Muốn nói lời phù phiếm (như trên).
- Đã nói những chuyện kể trên rồi.
Khi người phạm vào hai chi phần trên thì là phạm vào tội nói lời phù phiếm, vô ích. Nhiều người lầm tưởng rằng, giới này vô tội vạ, chỉ để giết thì giờ, để giải trí cho vui - nhưng thật ra, lâu ngày chầy tháng nó sẽ làm cho ta giảm mất tư cách và giá trị con người.
Về phần khẩu, vậy là có 4 tội: Nói dối, nói ly gián, nói độc ác và nói phù phiếm.
8. Tham lam quá (Abhijjhā) : Có hai chi là:
- Parabhaṇḍaṃ: Của cải của người khác.
- Attano parināmānam (?): Đã tìm cách thế đem những của cải về cho mình - dù chỉ mới tính quyết rằng: Ta sẽ đem của cải ấy về cho ta, nhưng chưa thực hiện thì cũng phạm vào chi phần nầy rồi.
Trái lại, nếu ta muốn được của cải, tài sản của người, nhưng tâm ta chưa quyết rằng ta chiếm cho kì được, thì chưa hẳn phạm giới.
Về khoản nầy, giới cấm rất gắt, và phải gắt như thế mới có thể đưa tâm của con người vào khuôn khổ được. Người tu muốn được giải thoát, cần phải có trí nhớ và công bằng để làm quan tòa xử tâm mình cho công minh, không thiên vị.
9. Oán thù (byāvata) [29]: Oán thù là ác tâm muốn tìm thế hại người, tìm mưu chước để làm mất lợi ích hoặc giảm uy tín của người mà họ oán ghét.

+ Oán thù có hai chi phần là:

- Parasaytto (?): Tạo nhân oán thù.
- Tasavināsacinto (?): Do oán thù nên suy nghĩ để tìm cách mưu hại kẻ khác.
Oán thù sanh lên bởi lòng nóng giận. Khi nóng giận kẻ khác mà chưa có ý nghĩ hại người, thì chưa hẳn phạm tội nầy, chừng nào tâm đã lập kế hại người, và đã hại người rồi mới gọi là phạm.
10. Tà kiến (Micchādiṭṭhi): Sự hiểu biết sai lầm, trái với sự thật, gọi là tà kiến. Ấy là sự nhận thức trái với chân lý. Ví dụ như tin tưởng rằng một khi đã phạm tội rồi, có thể yêu cầu kẻ khác rửa tội cho mình, hoặc chịu tội thế cho mình, tin rằng có kẻ khác cho ta phước, phạt ta phải chịu tội, chớ không tin rằng: Phước theo ta như bóng theo hình, hễ hình cao thì bóng dài mà hình thấp thì bóng ngắn.

+ Tà kiến có hai chi phần là:

- Vatthuni gahiṭakāraviparītattā: Tánh cách của sự cố chấp , chấp vào điều sai với sự thật.
- Yathā ca taṃ bandhati tathābhāvena tassapatthānaṃ: Chấp với tánh cách hiểu lầm, những điều sai với sự thật, mà cho rằng đúng, không chịu bỏ.
Người tu tại gia cố tránh mười điều ác do thân, khẩu, ý, tạo ra; đồng thời ráng hành mười điều thiện. Được như vậy, mới là đúng luật của người cư sĩ tại gia.

Luật của người xuất gia

Anāgāriyavinaya: Nếu dịch đúng theo phạn ngữ là luật của người vô gia đình, mà người vô gia đình là người xuất gia. Người xuất gia không được phạm một điều nào trong 227 điều luật đã thọ trì.
227 điều ấy, gọi là cụ túc giới, nếu vị tỳ-khưu nào phạm đến, tùy theo sám hối được hay không - thì hoặc bị phạt cấm phòng hay bị hoàn tục nghĩa là bị trục xuất ra khỏi hàng Tăng-già.

+ Cụ túc giới chia ra làm 7 phần:

1. Pārājika: Bất cộng trụ.
2. Saṇghādisesa: Tăng tàn
3. Thullaccāya: Tội trọng
4. Pācittiya: Ưng xã đối trị
5. Pāṭidesanīya: Ưng phát lộ (Ưng đối trị)
6. Dukkaṭa: Tác ác
7. Dubbhāsita: Ác ngữ
Thầy tỳ-khưu phạm bất cộng trụ thì bị trục xuất khỏi giáo hội; phạm tăng tàn phải bị cấm phòng, còn phạm vào năm điều sau thì có thể xin sám hối được.
Đừng nói chi đến sự phạm bất cộng trụ  tăng tàn, thầy tỳ-khưu phạm vào một điều nào của năm điều sau, tuy có thể xin sám hối được, mà lại quên không xin sám hối, thì điều tội ấy dù nhỏ, cũng ngăn con đường thiên đàng và Niết-bàn, như câu Phật dạy rằng:Sāpattikassa bhikkhaveniriyaṃ vadāmi tiracchānayoniyaṃ, nghĩa là: “Nầy thầy tỳ-khưu! Như lai thấy như thực rằng: Địa ngục hay súc sanh là cảnh giới dành để cho các thầy tỳ-khưu phạm trọng giới ”.
Đây tôi xin nhắc sơ lược sự thích của một thầy tỳ-khưu, chỉ phạm một giới rất nhỏ mà quên sám hối, rồi phải bị đọa vào súc sanh.
“- Trong thời kỳ giáo pháp của đức Phật Kassapa (Ca-diếp) có một thầy tỳ-khưu hành đạo trong rừng tám muôn năm, giới hạnh của thầy rất trang nghiêm. Ngày nọ, đi ghe theo sông Gaṇgā, tới chỗ nước chảy mạnh, ghe đi rất đỗi mau, ông kinh sợ, níu một bụi tranh, mọc nơi bờ, rủi đứt bụi tranh; khi trở về tịnh thất, ông quên sám hối, tưởng đó là một tội nhỏ thôi[30]. Khi sắp lâm chung, ông có cảm tưởng như có lá tranh đến quào vào cổ ông. Chừng ấy ông muốn sám hối, nhưng rủi thay, trong lúc ấy không có một vị tỳ-khưu nào đó để ông sám hối, nên ông rất ân hận rằng giới hạnh của mình không được trong sạch. Rồi ông tắt hơi, sanh làm vị Long vương tên Erakapatti - từ đời đức Phật Ca-diếp đến thời đức Thế Tôn hiện tại của chúng ta. Tuy Long vương có thọ tam quy và ngũ giới, được nghe pháp của đức Phật Gotama nhưng không thể đắc đạo quả được vì còn mang xác thân súc sanh”.
Vì lẽ ấy nên các thầy tỳ-khưu, vì dễ duôi hay vì không cố ý mà lỡ phạm vào một điều nào dầu thật nhỏ, cũng nên sám hối liền, bằng không, dầu đạo hạnh thanh cao và có tinh tấn đến đâu, sắp đắc đạo quả, cũng bị trở ngại.
“- Còn nữa, một thuở nọ, đức Thế Tôn đi ngang qua xứ Kosala, trông thấy ở lề đường có một cây cổ thụ có hoa, và trong hoa có lửa đang cháy, xem thật ghê sợ và rất nguy hiểm cho thân cây. Đức Thế Tôn liền đem hình ảnh cây cổ thụ và lửa đang đốt nó làm ví dụ để thuyết một bài pháp thật dài, dạy các thầy tỳ-khưu về lửa phiền não hằng thiêu đốt thân tâm con người.
Trong khi nghe đức Phật thuyết pháp, có 60 vị tỳ-khưu vi phạm vào giới bất cộng trụ mà giấu lỗi liền phát tâm ân hận, mửa máu tươi ra chết tại chỗ. 60 vị khác phạm tăng tàn nhưng cũng giấu lỗi, tự xét lấy mình, rằng là phạm hạnh của đức Phật dạy thật là cao quý, mà ta không thể hành được; suy nghĩ như thế rồi 60 vị ấy xin hoàn tục. Còn 60 vị nữa tự xét giới hạnh của mình thật trong sạch nên tâm thơ thới, quán tưởng ba tướng nên đắc A-la-hán quả”.
Đến đây có lẽ có người muốn hỏi: “Nếu theo thời pháp của đức Thế Tôn dạy thì 60 vị chết tại chỗ và 60 vị hoàn tục, thì thời pháp ấy có kết quả lành ít mà tai hại lại nhiều; vậy tại sao đức Phật lại thuyết? Thế lòng từ bi vô lượng của ngài ở đâu? ”
Đặt câu hỏi như vậy chỉ chứng tỏ chúng ta thấy gần nhưng không hiểu xa! Đức Thế Tôn là bậc đã hoàn toàn giác ngộ nên việc làm nào của ngài cũng rất nghiêm minh, chu đáo và lợi lạc cho chúng sanh. Nếu ngài không thuyết thời pháp ấy thì chư tỳ-khưu phạm bất cộng trụ và tăng tàn ấy tha hồ mà lợi dụng lòng tin tưởng của tín đồ. Trong tạng Luật, đức Phật  đã sánh hạng tỳ-khưu ấy với một bọn cướp rất lợi hại, nhà chức trách không biết và không thể bắt được. Vì bọn cướp ấy giấu mặt, mà người không biết lại vui lòng giúp cho khí giới nữa. Thiện tín đâu biết ấy chính là các thầy tỳ-khưu phá giới nên dâng cúng bằng tất cả tấm lòng cung kính. Bởi vậy đức Phật phải thuyết thời pháp ấy, vì ngài thương hại cho các vị tỳ-khưu sợ càng giấu lỗi thì tội họ càng ngày càng nhiều, vì cướp của thiện tín thì càng bị đọa vào địa ngục. Còn 60 vị tỳ- khưu phạm tăng tàn, sau khi hoàn tục, nếu cố gắng thực hành theo hạnh người tại gia cũng có thể đắc được đạo quả. Còn nữa, nếu đức Phật không thuyết thời pháp ấy, thì các thầy tỳ-khưu ấy càng làm thêm những điều chẳng lành, làm cho ngoại đạo hay biết chuyện chẳng hay ấy, họ chỉ trích đạo Phật, làm cho đạo Phật khó truyền bá, không đi sâu được vào các giới trong xã hội nhất là các bậc thượng lưu, đạo đức, trí thức. Vì vậy nên thời pháp mà ngài thuyết rất là cao quí, vì lòng từ bi của một đấng Giác Ngộ; và cũng không phải vì thời pháp của ngài đã làm hại các thầy tỳ-khưu, mà đó chẳng qua là cái quả tu hành không chân chánh của các thầy tỳ-khưu ấy đó thôi.

+ Luật xuất gia còn gọi là luật của người vô gia đình, ngụ ý chỉ Tứ thanh tịnh giới. Tứ thanh tịnh giới ấy là:

1. Pātimokkhasaṃvarasīla: Tàu âm là Ba-la-đề-mộc-xoa; còn được gọi là Biệt biệt giải thoát thu thúc giới hay là Cụ túc giới - tức là có cả thảy 227 giới điều [31] mà thầy tỳ-khưu phải hành theo.
2. Indriysaṃvarasīla: Lục căn thu thúc giới
3. Ājīvapārisuddhisīla: Chánh mạng thanh tịnh giới.
4. Paccayasannissitasīla: Quán tưởng thọ vật dụng thanh tịnh giới.
I. Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát thu thức giới là 227 giới điều của bậc tỳ-khưu phải tuân hành theo cho thật trong sạch, dầu một giới thật nhỏ cũng không cho phạm vào. Người tu phải luôn luôn trau dồi giới hạnh cho trong sạch, cũng như chỉ có một con mắt, hết sức trông nom săn sóc con mắt còn lại cho khỏi bị bệnh. Thầy tỳ-khưu biết thương yêu, quý trọng giới hạnh của mình, mặc dầu chết chứ không cho phạm giới rất nhỏ như thầy tỳ-khưu trong sự tích sau đây:
“- Có một thời tỳ-khưu hành đạo trong rừng bỗng bị một bọn cướp bắt ngài, cột trói lại bằng một sợi dây bổ thảo (?)- thứ cây như dây bình bát - rồi chúng bỏ giữa rừng, không cho ngài về thành, vì sợ ngài về mách với chánh quyền đến truy nã chớ không ác ý muốn giết hại ngài. Thầy tỳ-khưu ấy không dám làm đứt sợi dây [32], sợ phạm Ưng đối trị trong điều học làm hại thảo mộc. Thầy cam chịu bị cột và nhịn đói bảy ngày, ráng hết sức tham thiền, hết ngày thứ bảy đắc A-na-hàm quả, chết được sanh về cõi Ngũ tịnh phạm thiên.”
Nên có câu kệ ca tụng giới đức trang nghiêm rằng:
“- Pātimokkhaṃ visodhento
Appeva jīvitaṃ jahe
Paññattaṃ lokanāthena
Nabhinde sīlasaṃvaraṃ”.
Nghĩa là: Hành giả có đức tin hành theo Ba-la-đề-mộc-xoa được thanh tịnh; có đủ can đảm bỏ mình, không chịu để phạm giới mà đức Lokanātha (Đấng Cứu Thế) [33] đã giảng giải.
Xem đến tích nầy có lẽ có nhiều người cảm động vì tư cách xử sự của vị tỳ-khưu ấy, mà cũng có người cho rằng: Ngài câu nệ một giới quá nhỏ. Tôi xin bào chữa cho ngài như vầy: Người như ngài thật là người biết yêu sự giải thoát. Ngài không còn làm nô lệ cho phiền não. Ngài thắng được cái ý nhơ nhớp là không biết ghê sợ và hổ thẹn tội lỗi nên ngài đã giải thoát. Riêng chúng ta còn làm nô lệ cho phiền não và vẫn còn chưa kinh sợ khổ não của sự sanh tử luân hồi.
Gương xán lạn ấy, chẳng những hàng xuất gia mà hàng cư sĩ phải noi theo, để gìn giữ giới hạnh của mình được tinh khiết và nâng cao trình độ tinh thần của mình trên đường giải thoát.
II. Lục căn thu thúc giới: Thầy tỳ-khưu muốn lục căn thu thúc được thanh tịnh thì trước nhứt phải biết quả báo cao thượng của sự thu thúc và tai hại của sự buông lung.
Đức Phật có dạy về hai điều ấy. Một, ngài dạy rằng: Có 6 nơi sanh ra cảm xúc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. Thầy tỳ-khưu gìn giữ 6 căn ấy cho cẩn thận thì sẽ được an vui, bằng không thì sẽ khổ tâm bất tức [34]. Hai, đức Phật có dạy rằng: Các thầy tỳ-khưu thà dùng miếng sắt bén móc vào con mắt, dùng dao thật bén nạo lỗ tai, lưỡi dao thật bén cắt lỗ mũi, lưỡi, thân nầy - còn hơn là thu nạp cảnh trần vào tâm và cho rằng đó là đẹp, thơm, ngon, mềm dịu và vui sướng. Thọ những vui sướng trong trần dục ấy, khi chết thầy tỳ-khưu chắc chắn đi về một trong bốn đường ác.
Hơn nữa, trước trần dục ấy thà ngủ quên đi còn hơn, vì nếu ngủ quên thì chỉ là một tội nhỏ - bằng khi thức mà thầy tỳ-khưu suy nghĩ quấy, lâu ngày sẽ dẫn thầy tỳ-khưu ấy đi vào con đường tội lỗi.
Vậy không riêng gì bậc xuất gia, mà hàng tại gia cư sĩ cũng phải noi theo bài kinh nầy là lo thu thúc lục căn; người không thu thúc lục căn thường bị mất lợi lạc trên đường tiến hóa và thường bị tai hại trong kiếp nầy như sự tích sau đây:
“- Khi xưa, có nhiều trừu (cừu) ở trong một hang núi gần rừng Tuyết Lãnh, trong bầy ấy có một con trừu cái rất là khôn ngoan tên là Mandamātā. Gần hang ấy có một hang khác, là nơi hai vợ chồng sói ở. Sói đực tên Pātimansa, sói cái tên Veni, thường bắt trừu ăn. Bầy trừu sợ nên kéo nhau đi xa nên vợ chồng sói bắt không được thịt. Sói đực mới bàn với vợ rằng: “Nàng hãy tìm cách làm quen với con trừu cái Mandamātā. Khi đã thân thiện rồi, nàng hãy than thở với trừu: Chồng tôi đã chết nên tôi không còn một thân thuộc nào cả, chỉ có mộtmình bạn thôi, vậy xin bạn hãy đến giúp tôi an táng chồng tôi. Chừng khi trừu Mandamātā đến, tôi sẽ vật nó để chúng ta cùng ăn thịt.” Sói cái y lời, rủ rê mãi mới đem trừu cái về được. Trừu cái bẩm chất khôn ngoan nên luôn luôn cảnh giác, đề phòng mọi bất trắc. Sói đực giả bộ chết, khi nghe tiếng vợ về, sợ không rủ rê được trừu cái, ngóc đầu lên coi. Trừu cái thoáng là biết, thấy mình trúng kế, lật đật bỏ chạy về rất mau, sói cái giận mắng chồng rằng: “Ông là người khùng! Không có trí tuệ suy xét, đã giả chết mà còn ngóc đầu lên xem, không hợp thời”.
Đức Thế Tôn kết luận tích nầy bằng câu kệ:
“- Na akāle vipekkheyya
Kāle pekkheyya paṇḍito
Pūtimanso va jhāyati
Yo akāle vipekkhati!”
Nghĩa là: Bậc trí thức không nên xem sắc trong lúc không nên xem, mà phải nên xem cho hợp thời. Người xem không hợp thời sẽ thất vọng buồn khổ như sói Pūtimansa vậy. Đây là cái tai họa không thu thúc lục căn. Vậy người tại gia cũng như người xuất gia nên ráng thu thúc lục căn.
III. Chánh mạng thanh tịnh giới: Chánh mạng thanh tịnh giới mà được trong sạch là do nhờ sự cố gắng nuôi mạng chân chánh y theo lời Phật dạy trong bài kinhMahāsatipatthanāsutta rằng: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Hàng Thinh Văn đệ tử trong Phật giáo cố dứt tà mạng và nuôi mạng chân chánh. Các thầy tỳ-khưu nên thực hành như thế mới gọi là nuôi mạng chân chánh”.
Chú giải có nói thêm rằng: Tà mạng mà Phật đề cập đến, đó là phương pháp bất chánh mà thầy tỳ-khưu không nên dùng đồ tứ vật dụng được người dâng cúng mà đức Phật gọi là tà mạng, gồm có 26 điều là:
1. Giả làm tề chỉnh (Giả vờ thu thúc trang nghiêm).   
2. Giả làm vui vẻ.
3. Nói ướm.                                                                 
4. Giả bộ dọa hăm.
5. Được nơi nầy đem cho nơi khác.                            
6. Cho trẻ.
7. Cho lá cây [35].                                                           
8. Cho bông hoa.
9. Cho cây xỉa răng.                                                    
10. Cho trái cây.
11. Cho nước rửa mặt.
12. Cho vật để tắm (xà bông)
13. Cho vật thoa dồi (Khi xưa đức Phật cho phép các thầy tỳ-khưu dùng dầu để xoa (thoa) trong mùa mưa rét cho khỏi nứt da).
14. Cho đất của Tăng.
15. Tôn kính kẻ thế.
16. Thật ít dối nhiều.
17. Giữ con cho người.
18. Làm tay sai cho người.
19. Làm thầy thuốc cho người.
20. Đem tin cho người.
21. Chịu cho người điều khiển.
22. Đem cơm đã khất thực được để cho người (không phải cha mẹ) ăn trước còn mình để khất thực lần thứ nhì mà ăn.
23. Cho đi cho lại.
24. Xem thiên văn địa lý.
25. Xem ngày tháng sao hạn.
26. Xem tay, tướng và thai cho đàn bà.
Trong 26 điều tà mạng kể trên có điều thuộc về thân, có điều thuộc về khẩu, thầy tỳ-khưu nào có lòng tham muốn lợi lộc để nuôi mạng mà hành theo 26 điều kể trên, hoặc một trong 26 điều cũng gọi là tà mạng.
Các bậc thánh nhơn thà chết chớ không bao giờ để phạm vào tà mạng. Tôi xin nhắc lại tích của đức Xá-lợi-phất.
“- Một ngày nọ đức Xá-lợi-phất đau bụng. Đức Mục-kiền-liên thấy vậy mới hỏi: “Khi sư huynh chưa xuất gia, gặp cơn đau bụng như thế nầy, uống thuốc chi mới mạnh?”
- Ăn cơm đề hồ (cơm nấu với sữa tươi) thì mạnh.
Có một vị thiên nghe được lời ấy, nên hiện đến mách với bà thí chủ của đức Xá-lợi-phất. Bà nấu cơm đề hồ dâng đầy bát cho đại đức Mục-kiền-liên, cốt ý đem về cho ngài Xá-lợi-phất dùng để trị bệnh. Đức Xá-lợi-phất từ chối hẳn, không chịu thọ thực, vì tự ngài đã nói ra - thì ăn món cơm đề hồ ấy chính là tà mạng. Đức Mục-kiền-liên yêu cầu mấy lượt, đức Xá-lợi-phất đều lắc đầu, trả lời rằng: “Ruột của tôi mà có đứt ra từng đoạn hay có thể chui ra và bò như rắn trên mặt đất đi nữa, tôi cũng không thọ thực món ăn nầy, vì tôi đã nhắc đến nó đêm hôm qua”.
Theo luật, dầu đức Xá-lợi-phất có thọ món đề hồ ấy để trị bệnh cũng vô tội, song các bậc thánh nhơn thọ trì giới luật rất chơn chánh, rất đáng làm gương cho hàng hậu thế. Các bậc xuất gia nên noi theo gương cao cả ấy, cố giữ mình đừng cho phạm vào 26 điều tà mạng kể trên.
IV. Quán tưởng thọ vật dụng thanh tịnh giới: Nghĩa là khi thọ lãnh, khi dùng, lúc đang dùng và khi dùng xong vật dụng của đàn-na thí chủ dâng cúng, thầy tỳ-khưu phải quán tưởng theo những lời trong bài kinh quán tưởng bằng Phạn ngữ, bằng không hiểu Phạn ngữ thì cần học hiểu bằng tiếng mẹ đẻ để lãnh hội ý nghĩa của kinh, để ngăn ngừa không cho tâm duyên theo trần tục. (Bài kinh quán tưởng có sẵn trong quyển Luật xuất gia của ngài Hộ Tông, xin miễn giải ra nơi đây).
Từ khi đức Phật thành đạo đến 15 năm sau, các đệ tử của ngài là các bậc thánh nhơn, bằng chẳng vậy cũng toàn là các vị tỳ-khưu biết yêu kính giới hạnh của mình, nên các ngài không xao lãng về quán tưởng.
Về sau có các vị tỳ-khưu không quán tưởng vật dụng của thí chủ dâng cúng, đức Thế Tôn biết thế mới dạy rằng: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Tứ sự mà các thầy thọ dụng cần phải quán tưởng trước rồi sẽ dùng sau”. Ngài còn dạy thêm rằng: “Các thầy tỳ-khưu thọ dụng tứ sự của người cúng dường mà không quán tưởng cũng như người uống thuốc độc”.
Thầy tỳ-khưu không nên dễ duôi mà suy nghĩ rằng: “Vật dụng nầy của con ta, em ta, chị ta, anh ta, cha mẹ ta, ta không cần quán tưởng cũng được, vì nếu ta không xuất gia những người nầy vẫn cho ta như thường”. Vị tỳ-khưu khi đã xuất gia không còn gia đình mà là người đã thuộc vào hàng tăng lữ, nhằm mục đích giải thoát mà thôi, không còn có quyến thuộc như người thế tục.
Đức Thế Tôn còn bi mẫn chỉ giáo rằng: “Thầy tỳ-khưu ăn cục sắt nướng đỏ còn hơn là thọ vật thực của thí chủ dâng cúng mà giới hạnh của mình không trong sạch và khi thọ lại không lo quán tưởng”.
Nơi đây tôi xin nhắc lại lời nói của ông sa-di Bhāgineyyasangherakkhita: Upajjhāyo mambhunjamānaṃ sālikuraṃ sambhutaṃ. Sabba savaparikkhīno natthidāni punabbhavo.
Nghĩa là: Tôi đang ăn cơm với các bạn rất ngon, rất thỏa thích, thầy tế độ tôi mới kêu tôi mà dạy rằng: “Nầy sa-di, người không nên tự đốt cháy lưỡi ngươi vì không quán tưởng”. Tôi nghe lời ấy lấy làm kinh sợ, tôi đắc A-la-hán quả khi còn đang ngồi chỗ ấy (nhờ sự kinh sợ và lo quán tưởng, nên đắc được quả ngay khi ấy). Tôi suy nghĩ rốt ráo, sáng rỡ như trăng trong ngày rằm; tôi đã hết phiền não, sẽ không còn tái sanh nữa.
Vì vậy nên có câu kệ:
“- Tasmā annopi dukkhassa
Patthayanto parikkhāraṃ
Yoniso paccavekkhitvā
Paṭisevethapaccave”.
Nghĩa là: Bởi vậy, các bậc hành giả muốn đi đến nơi dứt khổ, phải biết quán tưởng tứ vật dụng trước rồi hãy thọ dụng sau.
(Trên đây chỉ nói tóm tắt, không thể giải đầy đủ hơn vì ngoài phạm vi của quyển sách nầy. Vậy độc giả nào muốn tìm sâu, hiểu rộng, xin xem Luật xuất gia của ngài Hộ Tông. Nhứt là nên học cho biết rõ về tà mạng của thầy tỳ-khưu, hầu để biết rõ hành động của người thay thế đức Từ Phụ trong hiện tại và tương lai). 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét