HẠNH PHÚC V
Pubbe ca
katapuññatā
Tánh cách
người có việc lành để dành từ trước
(Công đức trước đã làm)
Câu
này dạy rằng: Người đã làm phước trong kiếp trước, ngày hôm nay được thọ hưởng
phước ấy.
Khi
được lợi lộc hay thoát khỏi một tai nạn, người ta thường cho rằng đó chỉ là
tình cờ, hay là sự may mắn. Sự thật, ấy là quả báo của việc lành mà người ấy đã
làm trong nhiều kiếp trước, nay đến lúc trổ quả. Người có ít nhiều đức tin và
tâm đạo thì cho rằng đó là do phước.
Phước là gì? Phước là những thành tựu đưa đến
những lạc thú ở đời, kinh gọi là hỹ mãn ngũ dục như giàu sang, quyền quý, chức
tước, danh vọng... [vii] Theo
quan niệm thông thường, nếu đem phước ra phân tách thì chúng ta thấy nó có ba
nhân tố, ba yếu tố cần và đủ; đấy là:
1-
Nhân của phước: Là
điều, là việc mà mình đã làm với sự trong sạch của thiện tâm, tức là do vô
tham, vô sân, vô si; mà sau khi làm xong, mình không hề ăn năn hối tiếc, trái lại
thấy trong lòng hân hoan, vui vẻ, thỏa thích.
2-
Quả của phước: Là
sự đầy đủ, thỏa mãn từ vật chất đến tinh thần mà mình đang hưởng thụ như giàu
sang, quyền chức, danh vọng, địa vị...
3-
Lý của phước: Là
sự may mắn thoắt đến, chợt đến cho ta, và khiến ta tránh khỏi tai nạn hoặc
thoát được một hoàn cảnh hiểm nghèo. Cái lý ấy, người không tu Phật thường
không suy gẫm sâu về nhân quả nên họ gọi là sự tình cờ, ngẫu nhiên. Thí dụ như
mình đi trễ chuyến xe sáng, nhưng sau đó, chiếc xe ấy bị tai nạn giữa đường.
Chuyện này chỉ như là tình cờ, ngẫu nhiên mà mình thoát khỏi tai nạn; nhưng thật
ra, đấy là do phước, do phước bảo trợ nên nó xúi ta đi trễ chuyến xe. Phước này
không có được từ hiện tại, mà do ta đã để dành sẵn từ kiếp trước. Tạm coi như đấy
là lý của phước [viii].
+ Có ba nguyên nhân
sanh phước:
-
Tâm trong sạch.
-
Ba cửa (thân, khẩu, ý) thanh tịnh.
1-
Tâm trong sạch: Là
tâm không lẫn lộn với tội ác như tham lam, sân hận, si mê, và tâm hằng nhớ đến
ân đức Tam Bảo.
“-
Trong kinh Pháp cú có chuyện thanh niên Maṭṭakuṇḍali là con của một ông trưởng
giả, có tiếng là keo kiệt nhất trong xứ. Khi Maṭṭakuṇḍali bệnh, ông trưởng giả
không rước thầy coi bệnh cho thuốc, mà lại hỏi thầy thuốc bệnh thế ấy uống thuốc
gì? Thầy thuốc biết ông ta bỏn xẻn, keo kiệt không chịu bỏ tiền mua thuốc, muốn
tự tay mình lên rừng kiếm thuốc cho đỡ tốn kém, nên ghét, chỉ thuốc không đúng
căn bệnh làm cho con ông càng ngày càng đau nặng. Ông trưởng giả thấy con bệnh
nặng, sắp chết, sợ để trong nhà quyến thuộc đến thăm phải tốn kém này nọ, nên
ông đem cho con ông nằm ngoài hàng ba. Vì thanh niên Maṭṭakuṇḍali là người đã tạo
nhiều duyên lành để lại từ kiếp trước, nên đêm ấy đức Thế Tôn dùng tuệ quan sát
thấy chàng có duyên; nên sáng ngày mai, ngài ngự đến ngay trước nhà của ông trưởng
giả. Lúc ấy, Maṭṭakuṇḍali lại nằm quay mặt vào trong nên đức Phật lại hiện hình
trên vách. Trông thấy đức Thế Tôn tướng hảo quang minh, chàng thanh niên Maṭṭakuṇḍali
lấy làm trong sạch và nghĩ rằng: Ta vô phước sanh làm con của người keo kiệt
không được làm việc lành. Hôm nay ta không thể ngồi dậy, đứng lên hoặc chấp tay
đảnh lễ Phật được. Thôi chỉ có tấm lòng thành kính, trong sạch này, con xin làm
lễ đức Thế Tôn.
Hướng
đến đức Phật, suy nghĩ thế xong thì tắt hơi, thanh niên Maṭṭakuṇḍali được sanh
về cõi trời do nhờ tâm ông kính thành và trong sạch”.
2-
Ba cửa thanh tịnh: Là
thân, khẩu, ý thanh tịnh. Thân thanh tịnh là không sát sanh, không trộm cướp và
không tà dâm. Khẩu thanh tịnh là không nói dối, không nói đâm thọc, không chửi
rủa mắng nhiếc và không nói lời vô ích. Ý thanh tịnh là không oán thù, không
tham lam, không tà kiến. Nói tóm lại, ba cửa thanh tịnh chính là 10 nghiệp
lành.
3-
Tâm biết rung động, biết kinh sợ tội lỗi: Nguyên
chúng sanh còn say mê theo tài sắc, danh lợi; tâm ác của họ không bao giờ biết
rung động, biết ghê sợ, biết kinh sợ trước tội lỗi mà chính mình đã làm. Trong
lúc say mê theo tài sắc, lợi, danh; họ đâu biết, đâu nghĩ rằng, khi tử thần gõ
cửa, họ sẽ ra đi với hai bàn tay trắng! Thậm chí như khi cha, mẹ, anh em thân bằng
quyến thuộc, người này, người kia bỏ họ ra đi về cảnh giới khác, họ cũng
chẳng hề nao núng và chẳng thể nghĩ rằng: Ngày nào đây họ cũng sẽ bỏ những gì mà
họ đã có, ra đi với hai bàn tay không cùng một khối tội lỗi nặng nề đè trên tâm
hồn họ. Người không biết rung động, biết kinh sợ tội lỗi thì không hề biết tu
hành, vì vậy nên không bao giờ có được một giây phút thoải mái, những khoảnh khắc
an lành. Vậy ta
nên để tâm rung động, ghê sợ trước những việc ác, những nhân tố đưa đến đau khổ;
ráng lo tu hành để được hạnh phúc trong kiếp này và sẽ được giải thoát muôn vạn
phiền não trong ngày vị lai.
Theo
đây tôi xin nhắc tích của đại đức Yasa, người biết ghê sợ, kinh tởm đời sống
ngũ dục.
“-
Sau khi chuyển pháp luân tại vườn Lộc uyển Bārāṇasī, Đức Thế Tôn tạm ở với 5 vị
Kiều Trần Như. Lúc ấy tại thành Bārāṇasī có chàng thanh niên Yasa, con của một
vị trưởng giả, được cưng chiều như viên ngọc quý. Chàng ở trong ba tòa lầu để
trong ba mùa, ngày đêm yến tiệc linh đình, tiếng ca hát không bao giờ dứt. Đêm
nọ, Yasa đang xem mỹ nhân múa hát, chàng phát chán rồi bỏ đi ngủ. Khuya lại, tỉnh
giấc, Yasa thấy những mỹ nhân đang ngủ, mồ hôi xông ra mùi khó thở, có cô nước
miếng chảy ra, có cô ngáy om sòm, chàng cảm thấy đó là những tử thi và tưởng
như mình đang đứng giữa bãi tha ma. Lấy làm kinh sợ, Yasa thốt rằng: “Thế gian
bẩn thỉu quá”! Ý chàng muốn nói thế gian nầy toàn là những vật nhơ nhớp, người
bị nhốt trong vòng tỏa của sự đau khổ, không biết nương tựa vào đâu được. Rồi
Yasa bỏ lầu ra đi về hướng vườn Lộc Giả. Đức Thế Tôn biết duyên lành của Yasa
đã đến, nên ngồi chờ chàng tại một nơi. Nơi đó, Yasa vừa đi vừa lập lại câu:
“Thế gian bẩn thỉu quá!”. Đức Thế Tôn gọi Yasa và nói rằng: “Đây không bẩn thỉu,
không bực bội, ngươi hãy đến đây". Yasa mới đến gần và đảnh lễ đức Thế
Tôn. Đức Thế Tôn mới thuyết về Anupubba cho ông nghe. Sau khi nghe xong thời
pháp, Yasa đắc quả Tu-đà-hoàn đến sáng ngày chàng đắc A-la-hán quả sau 5 thầy
Kiều Trần Như. Và thanh niên Yasa là vị A-la-hán thứ sáu trong Phật giáo”.
Nhơn
đó đức Phật dạy cho đệ tử nghe rằng: Kiếp trước Yasa là người làm nghề thiêu tử
thi. Có ngày nọ ông thiêu tử thi của một người đàn bà có thai. Khi đốt tử thi
cháy, ông thấy đứa trẻ lòi ra trông rất ghê tởm. Ông phát tâm chán sợ về sự nhơ
nhớp của xác thân, đó là cái nhân.Đến kiếp
nầy ông thấy mỹ nữ là những tử thi.
+ Đây tôi xin nói tóm
về pháp Anupubba (thuận thứ) của đức Phật đã thuyết cho đại đức Yassa là pháp
hành theo tuần tự 5 điều:
1.
Dāna: Dạy
về bố thí
2.
Sīla: Dạy
về trì giới
3.
Sagga: Nói
về sự an vui trong các cõi trời
4.
Kāmādīnava: Nói
về tội ngũ trần
5.
Nekkhammanissanda: Dạy
về cái quả của sự xuất gia
Sở
dĩ pháp đó gọi là pháp đi theo tuần tự (thuận
thứ), từ thấp lên cao - là vì trước hết đức Phật dạy
về bố thí, thứ nhì là trì giới, sau ngài mới nói về an lạc cõi trời, tiếp theo
là nói đến cái hại của ngũ trần sau đó mới nói đến kết quả của sự xuất gia, là
con đường chấm dứt tất cả mọi khổ ách.
Nếu
ta hành được pháp tuần tự đó thì tạo được nhân sanh phước và ta tạo được phước
lành trong kiếp trước, thì chắc chắn chúng ta sẽ được hưởng phước trong ngày vị
lai.
Có
người hỏi: Có ai có thể cướp được hạnh phước báu của ta chăng?
Đức
Thế Tôn dạy: Phước ấy theo ta như bóng với hình, không ai có thể trộm cắp hay
cưỡng bách hoặc lập mưu kế gì để cướp giật phước báu ấy được, chẳng khác gì hột
ngọc Siri trong sự tích sau đây.
“-
Khi đức Thế Tôn còn tại thế, ông trưởng giả Cấp Cô Độc làm phước bố thí cho đến
khi nghèo. Ông làm chùa Kỳ Viên, mua vườn xoài của hoàng thân Kỳ-đà bằng cách
trải vàng đầy mặt đất. Vì vậy chùa Kỳ Viên cũng có tên là Bố Kim Tự (Chùa trải
vàng). Ngoài ra ông còn làm phước bố thí nhiều không kể hết. Ông làm phước cho
đến lúc chỉ còn cháo tấm và bột chua. Nhưng về sau ông giàu trở lại. Có thầy
bà-la-môn tìm hiểu coi tại sao ông giàu, rồi lại nghèo, trở lại giàu! Sau nhiều
lần quan sát, thầy bà-la-môn thấy trên đầu một con gà trống ở nhà ông trưởng giả
có viên ngọc Siri. Biết đây là nguyên nhân sanh phước, ông bà-la-môn liền đến
xin con gà ấy và thầy tin chắc rằng ông trưởng giả sẽ cho vì thầy viện lẽ rằng,
nhà thầy có gà, nhưng toàn là gà gáy sai canh, cần một con gà gáy đúng canh để
học trò dậy học bài. Ông trưởng giả vốn là người giàu lòng bố thí, thì con gà đối
với ông không có nghĩa lý gì, nên ông cho liền. Khi ông
trưởng giả bằng lòng cho con gà thì cái Siri lại bay qua đậu trên cây gậy của
ông trưởng giả; thầy bà-la-môn xin luôn cây gậy, ông cũng cho, thì Siri bay lên
đậu trên đầu của bà trưởng giả.
Thấy
hiện tượng ấy, thầy bà-la-môn biết rằng, vật ấy, viên ngọc Siri, viên ngọc may
mắn ấy thường đi liền với chủ, không ai có thể xin mượn hay cướp giật được, bèn
thú nhận: “Tôi xin trả lại con gà
trống trắng và cây gậy lại cho ông. Thật ra tôi thấy cái Siri của gia đình ông ở
trên đầu con gà, nên tôi mới xin nó, không dè ngọc Siri lại bay đậu trên cây gậy
của ông, rồi tôi xin cây gậy thì cái Siri ấy lại bay đậu trên đầu bà. Cái viên
ngọc Siri may mắn và quý báu ấy là vật sở hữu của ông, thật không ai có thể lấy
được”.
+ Vậy khi có phước
thì không ai làm thể nào cướp lấy được phước của ta. Muốn tạo ra phước, ta có
ba pháp phải hành:
-
Bố thí trừ tham lam.
-
Từ bi để diệt lòng sân hận.
-
Tham thiền theo hai pháp: Chỉ tịnh (định) và quán minh (tuệ, minh sát tuệ) để trừ si mê và tà kiến.
Nhưng
phải hành ba pháp đó bằng tâm trong sạch, sốt sắng, quyết định, thì quả phước đến
cho ta mau lẹ. Trái lại nếu ta làm chần chờ, giải đãi, dụ dự thì quả lành cũng
đến chậm chạp. Lẽ cố nhiên, mỗi khi ta muốn làm một việc gì quấy, thì cả trăm
tâm ác xô đẩy xúi giục ta mau thi hành việc quấy ấy; còn khi nào ta muốn làm
lành như bố thí, thì hằng ngày cái tâm ác kéo lại không cho ta thực hành.
+ Phước đem lại rất
nhiều lợi ích an lành cho ta như là:
1.
Ajeyya: Không
ai dành lấy được - vì không gì có thể thắng nổi phước.
2.
Anugaminī: Theo
dính bên mình ta, nó theo vào, đi liền với ta như bóng không lìa hình.
3.
Etaṃ adaya gacchati: Khi
người bỏ xác thân này không đem gì theo được, ngoài nghiệp nhân mà mình đã
gieo.
4.
Asādhāraṇa: Riêng
biệt, không phải công cộng. Nghĩa là, phước không phải là của chung, của ai tạo
thì người ấy hưởng, chớ không phải của người này tạo mà người kia hưởng được,
cho dù là quyến thuộc.
5.
Acoro: Kẻ
trộm không thể trộm được.
6.
Sabbakammaddā: Phước
ấy trả quả cho người đã tạo được an vui và đắc kỳ sở nguyện. Được thọ lãnh trọn
vẹn kết quả nghiệp lành mà mình đã tạo.
8.
Suvaṇṇatā: Có
làn da đẹp
9.
Sussaratā: Có
tiếng nói dịu dàng, nghe rất hay.
10.
Susaṇṭhāna: Có
tướng tốt.
11.
Surūpatā: Có
thân hình đẹp, sắc tướng tuyệt mỹ.
12.
Adhipaccam: Được
chức phận lớn
13.
Parivāro: Được
nhiều người tâm phúc, nhiều kẻ tùy tung, hầu hạ.
14.
Padesarajjam: Được
quyền uy trong một xứ, một địa phận.
15.
Issariyam: Được
độc lập, nghĩa là không dưới quyền ai; nhiều của cải, tài sản.
16.
Cakkavattī: Được
làm vua Chuyển luân vương.
17.
Devarajjampi: Được
làm Thiên vương
18.
Manussika: Được
sanh làm người giàu sang
19.
Devaloke: Được
sanh vào cõi trời
20.
Nibbānasampatti: Đắc
được quả vô thượng là Niết-bàn
21.
Mittasampadamagamma: Được
có nhiều bạn lành
22.
Vijjāvimutti: Đắc
giải thoát do nhờ trí minh
23.
Paṭisambhidā: Đắc
tuệ phân tích
24.
Vimokkha: Được
giải thoát
25.
Savakaparamī: Đắc
được Ba-la-mật của bậc Thanh văn đệ tử Phật
26.
Paccekabodhi: Đắc
được quả Độc Giác Phật
27.
Buddhabhūmi: Được
căn bản của trí Phật
28.
Sukhanaṃ nidānaṃ: Có
được phương tiện (nhân) để đưa đến hạnh phúc, an vui.
29.
Sampattinaṃ mūlam: Là
gốc rễ của sự may mắn, thành tựu, an vui, giác ngộ, giải thoát.
30.
Bhoganaṃ mūlaṃ: Là
nguồn gốc có được những sở hữu tài sản.
31.
Visamagatassatnam (?) :
Phước là vật vô tri cho người còn luân hồi.
32.
Dānasadiso avassayo: Phước
giống như sự nương nhờ.
33.
Sīhasadisaṃ :
Phước giống như (hang) sư tử, nghĩa là nơi mà các con thú
khác không dám leo đến, người có phước không bao giờ gặp tai nạn của kẻ ác gây
nên.
34.
Papahapaṭhavī sadisaṃ: Phước
giống như quả địa cầu chở người có phước.
35.
Rajjudisaṃ: Phước
giống như sợi dây cột tâm lại không cho đi lầm đường.
38.
Susaṅkhatanagaraṃ: Phước
ví như kinh thành hay phố thị mà người ta trang điểm huy hoàng.
39.
Padumasadisaṃ: Phước
giống như hoa sen - không hôi tanh mùi bùn, nghĩa là không hề đưa người đi vào
đường tội lỗi, xấu ác.
40.
Aggisadisaṃ: Phước
ví như lửa - đốt cháy phiền não trong tâm
41.
Asīvissadisaṃ: Phước
ví như rắn độc vì nó cắn chết tội.
44.
Hatthīsadisaṃ: Phước
ví như bạch tượng - là thú quý nhứt.
46.
Gatamaggaṃ: Phước
là con đường đi của các bậc thánh nhơn.
47.
Buddhavansaṃ: Phước
là dòng của Phật, nghĩa là muốn đắc quả Phật thì phải tạo nhiều phước.
Phước
còn đem lại cho ta nhiều hạnh phúc, như là: Phước là vật thực trong đời vị lai
của người chưa đi đến Niết-bàn.
Phước
là nguyên nhân cho chúng ta được ba điều an lạc là: Nhân, thiên, và Niết-bàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét