Thứ Năm, 15 tháng 9, 2016

38 PHÁP HẠNH PHÚC-24- TÔN KÍNH BẬC ĐÁNG TÔN KÍNH

KỆ NGÔN VII
HẠNH PHÚC XXII

Gāravo: Tôn kính các bậc đáng tôn kính

 Tôi xin chia hạnh phúc nầy ra làm ba phần để cho quí vị dễ dàng theo dõi và nhận thức:
1. Tôn kính là gì?
2. Thế nào gọi là có sự tôn kính?
3. Sự tôn kính có nhiều ý nghĩa, cấp độ khác nhau ra sao?
Tôn kính là thái độ, hành động lễ nghi, phép tắc phải lẽ của người biết tôn kính những gì mà họ đáng tôn kính. Nhưng xin đừng tưởng rằng lạy lục, chào hỏi gọi là tôn kính. Lạy lục chào hỏi chẳng qua là hành động bên ngoài. Người không có sự tôn kính trong thâm tâm, họ cũng vẫn làm như vậy được, vì đó là sự giả vờ bên ngoài.
Sự tôn kính, thật sự ta không thể trông thấy bằng mắt được. Phạn ngữ gọi là gārava (tôn kính).Chữ gārava biến thể từ chữ Garu, tính từ của nó nghĩa là nặng, nghiêm trọng, đáng kính trọng; danh từ của nó là thầy, thầy tổ, đạo sư, chân sư... Hàm nghĩa trọn vẹn có ý nói rằng: Ta thành thật tôn kính với tất cả tâm kính thành đối với các bậc dáng tôn kính như cha mẹ, thầy tổ, đạo sư, chân sư...
Khi ta đến một nơi nào, gặp một nhân vật trọng yếu nào, hay là đến chỗ phụng thờ tôn nghiêm nào, ta thấy lòng ta phát sanh sự tôn kính ở bên ngoài. Phật giáo cho sự chào hỏi rất lễ phép ở bên ngoài ấy cũng chưa phải hoàn toàn là tôn kính, mà chú trọng đến sự tôn kính ở trong tâm.
Chú giải có dạy rằng: Phải biết tôn thờ, kính trọng các đấng có đặc ân cao cả như chư Phật, chư thánh nhơn, chư tăng, bậc có giới đức, cha mẹ, thầy tổ và những bậc trưởng thượng...
Trong bài kinh Cūlakammavibhaṅgasutta ở Catutthavagga, đức Thế Tôn có dạy người thanh niên tên Subha rằng:
“- Nầy Subha! Người nữ hoặc nam trong đời này là người ương ngạnh, ngã mạn, không chịu lễ bái các bậc đáng lễ bái, không chịu đứng dậy tiếp rước, không chịu nhường chỗ ngồi cho bậc đáng nhường, không tiếp đãi bậc đáng tiếp đãi, không kính trọng các bậc đáng kính trọng, không thân mến với các bậc đáng thân mến, không cúng dường đến các bậc đáng cúng dường - người ấy sau khi chết sẽ bị sanh vào ác đạo, vì nghiệp mà tự mình đã làm ấy. Nếu không sanh vào bốn đường ác, khi được sanh làm người thì bị rơi vào gia đình thấp hèn. Nầy thanh niên Subha! Người có tánh ương ngạnh, ngã mạn... không cúng dường đến các bậc đáng cúng dường... chính người ấy tự tạo ra con đường đi đến nơi gia đình dòng họ tối tăm, ngu si, đê hèn.
Nầy thanh niên Subha! Trái lại, người nam hay nữ nào ở trong đời nầy không ương ngạnh, không ngã mạn - biết cúng dường đến các bậc đáng cúng dường... người ấy sau khi lâm chung sẽ được sanh về cõi thiên đàng - vì người ấy đã tự tạo  thiện nghiệp cho mình. Nếu người ấy không sanh về cõi trời, sanh lại làm người, thì sẽ được sanh vào gia đình cao thượng, gia đình quí phái. Nầy thanh niên Subha! Người không ương ngạnh, ngã mạn cúng dường đến các bậc đáng cúng dường... đó là hành vi của người đi đến cõi an vui”.
Theo Phật ngôn nầy thì ta thấy rằng: Sự tôn kính nầy không phân chia giai cấp xã hội, đầu tiên chỉ được dành cho người có đức hạnh và tuổi tác.
Trong Túc sanh truyện, có một sự tích dạy về sự tôn kính theo ý nghĩa trên.
Có lúc nọ, chư Tăng hội lại rất đông để hầu Phật. Nhiều thầy tỳ-khưu choán chỗ ở rộng lớn, có vị một mình chiếm hai chỗ hoặc ba chỗ. Đại đức Xá-lợi-phất đến sau, không có chỗ ở, đành phải ra ngoài trời. Khuya lại, đi kinh hành gặp đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn đã biết chuyện ấy từ trước, nhưng để đến khi gặp đức Xá-lợi-phất, ngài mới hỏi tại sao ở ngoài trời. Đức Xá-lợi-phất đáp với ý là vì tới trễ nên không có chỗ nghỉ.
Nhân chuyện ấy, sáng ngày, đức Thế Tôn mới cho nhóm chư vị tỳ-khưu lại và nhắc đến một sự tích nhằm giáo giới các vị tỳ-khưu không biết tôn kính bậc trưởng thượng:
“- Lúc quá khứ tại rừng Tuyết Lãnh có một gốc đại thụ, ấy là nơi cư ngụ của ba con thú. Ba con thú ấy là chim đa đa, khỉ và voi; chúng chơi với nhau rất thân nhưng không biết ai lớn ai nhỏ. Một hôm, ba con thú ấy mới bàn với nhau rằng: “Chúng ta chơi với nhau đã lâu, thân với nhau cũng đã lắm nhưng dường như có một cái gì đó thiếu lễ nghi, phép tắc! Cụ thể là chúng ta ngang hàng với nhau, chẳng biết ai lớn ai nhỏ để nhắc nhở, dạy bảo nhau”. Chim đa đa nói: “Phải rồi, hãy xem trong chúng ta ai lớn tuổi hơn để làm anh”. Khỉ nói: “Em phải kính trọng anh, anh phải dạy bảo em”. Rồi chúng mới hỏi nhau rằng: “Vậy trong chúng ta ai biết cây đại thụ nầy có mặt từ bao giờ?” Voi đáp: “Nầy các bạn! Tôi nhớ, trong khi tôi còn là voi con, mẹ tôi dẫn tôi đi ăn qua đây, thì cây đại thụ nầy còn ở dưới bụng tôi. Tôi biết nó từ lúc ấy”. Khỉ nói: “Nầy các bạn! Khi tôi còn bú, tôi ngồi trên đất không cần phải ngước đầu lên, cũng có thể dùng miệng cắn ngọn cây đại thụ nầy được. Vậy tôi biết nó từ khi ấy”. Chim đa đa nói: “Nầy các bạn! Khi trước, tôi nhớ, cao trên ngọn Tuyết Lãnh kia, có một cây đại thụ có trái chín ngọt như mật ong. Sau khi ăn no nê trái cây chín ấy, bay xuống nơi này và tôi đã đại tiện ở đây. Chính cái hạt trong đống phân ấy nẩy mầm và bây giờ thành cây đại thụ nầy!”Qua sự trần thuật của ba con thú, chúng nhận ra rằng, hóa ra con chim đa đa nhỏ con lại lớn tuổi hơn và ông voi to xác thì lại là em út. Từ lúc ấy trở về sau, khỉ và voi tôn chim đa đa lên làm anh cả; cả hai kính trọng vâng lời chỉ bảo. Chim đa đa dạy khỉ và voi phải giữ ngũ giới. Sau khi chết, cả ba đều sanh về cõi trời”.
Sau khi nhắc tích nầy xong, đức Phật mới dạy rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Loài thú mà còn biết phân biệt lớn nhỏ để kính trọng nhau, dạy bảo nhau thay; phương chi các thầy, xuất gia theo giáo pháp của Như Lai, lại không biết tôn trọng các người có tuổi tác, không biết tôn kính các bậc trưởng thượng! Xá-lợi-phất là vị đại đệ tử niên cao, lạp lớn; đức hạnh, trí tuệ đều vô song - thế mà đêm qua, các người đã chiếm hết chỗ, để cho người con ưu tú, mẫu mực Như Lai phải nghỉ ở ngoài trời. Các thầy thấy như vậy có được không? Có đáng bị khiển trách vì sự không biết tôn kính ấy không?”
Thấy nhóm tỳ-khưu kia hổ thẹn, cúi đầu - đức Phật biết họ đã có tàm và quý - nên dịu dàng dạy tiếp:
“- Người nào thông hiểu pháp biết kính trọng bậc cao thượng hơn mình, kẻ ấy trong đời nầy đáng là người được người khác ngợi khen, đời sau được sanh về cõi trời”.
Chú giải có gom ý câu kệ nầy cũng tương tợ vậy: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Chúng sanh bất luận hạng nào, dầu vua chúa, bà -la-môn, nông gia hoặc người xuất gia - chẳng hạn - là người thông hiểu về sự biết tôn kính các bậc đáng tôn kính, vì lớn tuổi hơn hay là có đức hạnh cao hơn, chúng sanh ấy trong đời nầy sẽ được sự mọi người ca tụng, ngợi khen, vị lai lại được sanh về cõi trời”.
Sự tích đa đa, khỉ, voi trên đây ngụ ý dạy ta nên kính trọng bậc niên cao kỷ trưởng, người có đức hạnh, dù người ấy thuộc hạng người nào trong xã hội, sự tôn kính ấy còn có tác dụng là diệt lòng ngã mạn của ta.
Hơn nữa sự tôn kính còn gọi là một hạnh phúc, vì sự tôn kính có thể đưa người khỏi tai nạn, được những đặc ân, và có thể là duyên lành để sau này đắc được chỉ tịnh và quán minh sát.
Sau khi đức Phật dạy thế xong, nửa đêm, có một vị thiên vào hầu Phật, bạch rằng:
“- Đức Thế Tôn dạy rất chính xác! Đệ tử do sự thấy biết riêng tư, do kinh nghiệm bản thân, do có thiên nhãn biết chút ít quá khứ, hiện tại và vị lai cùng với nhân quả của nó - nên đệ tử mạo muội trình bày về 7 pháp làm cho các thầy tỳ-khưu tránh khỏi tai nạn - mong được đức Thế Tôn chỉ giáo thêm.

+ Bảy pháp ấy là:

1. Buddhagāravatā: Tư cách người biết tôn kính Phật.
2. Dhammagāravatā: Tư cách người biết tôn kính Pháp.
3. Saṅghagāravatā: Tư cách người biết tôn kính Tăng.
4. Sikkhāgāravatā: Tư cách người biết tôn kính điều học.
5. Appamādagāravatā: Tư cách người biết tôn kính sự không phóng dật, dễ duôi.
6. Samādhigāravatā: Tư cách người biết tôn kính thiền định.
7. Paṭisanthāragāravatā: Tư cách người biết tôn kính trong việc xử sự, giao tiếp, tiếp đãi.
Bạch đức Thế Tôn! Chính nhờ 7 pháp nầy làm cho chư vị tỳ-khưu đi đây đi đó, bất cứ trú xứ nào cũng không bị tai nạn hoặc họa hại”.
Đến sáng ngày đức Thế Tôn thuật cây chuyện ấy cho chư vị tỳ-khưu nghe rồi kết luận bằng câu kệ rằng:
“- Satthagaru dhammagaru
Saṅghe ca tibbagāravo
Abhabbo parihāniya
Nibbānasseva santipe”.
Nghĩa là, thầy tỳ-khưu có sự kính trọng Phật, Pháp, Tăng là người không thể bị tai hại, không thể bị suy đồi - thì thầy tỳ- khưu ấy đã ở gần Niết-bàn.
Đây xin giải về 7 điều tôn kính ấy.
Sự tôn kính là một pháp rất cần cho đời và đạo. Người biết tôn kính bậc trưởng thượng thì người ấy làm gì cũng được dễ dàng, vì có người giúp đỡ.

+ Tôn kính Phật - Ta tôn kính Phật vì hai lẽ:

a. Dù thuở còn tại gia, ngài là một vị đế vương, thuộc dòng dõi cao quý.
b. Khi xuất gia tầm đạo, ngài đắc quả Vô thượng Chánh Đẳng Giác, xuống núi độ đời, dùng đuốc tuệ soi đường phá tan bầu trời mờ tối vô minh. Tất cả như chư thiên, phạm thiên đều hoan hô, tán thán, ca tụng ngài với 09 hồng danh từ Ứng Cúng đến Thế Tôn.
Trong chú giải có dạy rằng: Khi đức Thế Tôn còn lại thế, các bậc tỳ-khưu biết kính Phật, mỗi ngày đều vào hầu Phật để cung kỉnh lắng nghe và thọ trì kim ngôn do ngài giáo huấn. Khi đức Thế Tôn đi kinh hành nơi thấp, các thầy không dám đi nơi cao hơn. Khi vào hầu Phật, các thầy không mang giày, dép (nếu có) [1] trong chỗ mà tầm mắt đức Thế Tôn có thể trông thấy, không dám đi đại tiểu tiện, chỗ mà đức Thế Tôn có thể thấy. Đại đệ tử của Phật là đức Xá-lợi-phất được đức Phật khen ngợi là người rất kính trọng Phật là vì hằng đêm khi đi ngủ biết đức Phật ngự hướng nào, đại đức Xá-lợi-phất nằm day đầu về hướng ấy. Có nhiều vị phàm tăng hỏi ngài: “Tại sao lại chọn quay đầu về hướng ấy?”. Ngài đáp: “Hướng ấy, là nơi đức Phật ngự hoặc là nơi mà thầy tôi, trưởng lão Asajji - đang ngụ cư!”
Riêng chúng ta là người rất xa Phật thì phải kính trọng Phật bằng cách nào? Chúng ta phải năng lễ Phật, tụng kinh và khi vào chùa, lên chánh điện, phải tỏ ra trang nghiêm và hết lòng tôn kính trước kim thân ngài, như ngài còn tại tiền vậy.
2. Tôn kính Pháp - Pháp là dhamma mà Tàu âm là  đạt-ma hoặc đàm-ma.
Ở trước đã có giải sơ lược về tiếng pháp, bây giờ xin giải thêm, dhamma (pháp), nghĩa là phàm vật gì có bản tính là giữ gìn tính chất của nó, không cho hư hại hay tiêu diệt [2].
Tôi xin ví dụ cho dễ hiểu: Như miếng vải trắng, nó giữ được màu trắng, khiến cho ai trông thấy cũng nhận biết miếng vải màu trắng, chớ không ai nói là miếng vải đen.
Nói cho dễ hiểu thêm, thì vật gì cũng có hai trạng thái là giữ chắc cái tính chất của nó, và phô bày ra kiểu cảnh màu sắc cho người nhận định phân biệt được. Như vậy gọi là pháp. Tôn kính pháp là chúng ta phải hết lòng thực hành theo lời giáo huấn của đức Phật.

+ Pháp có ba chi khác nhau là:

a. Pháp học: Ý nói là học 4 muôn 8 ngàn chi pháp; người muốn thông hiểu phải ráng học, không dễ duôi.
b. Pháp hành: Là giới, định, tuệ; là pháp mà hành giả phải hành theo trên lộ trình đến nơi giải thoát.
c. Pháp thành: Chỉ các bậc thánh nhơn đã đắc từ sơ quả đến tứ quả và Niết-bàn.
Ba pháp trên có quả báo khác nhau.
* Pháp học giúp cho người tu Phật nắm chắc, biết chắc căn bản giáo pháp, hiểu rõ lộ trình tu tập để thực hành đúng theo chánh đạo.
* Pháp hành làm cho người tu Phật thấy rõ bản chất của pháp là vô thường, khổ não, vô ngã; trí tuệ phát sanh, diệt tận phiền não đắc được đạo quả Niết-bàn. Người đã đắc đạo quả Niết-bàn, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, cũng do nơi tôn kính pháp. Trong trường hợp nầy, nghĩa của tôn kính là thực hành theo pháp.
Riêng nơi đây tôi muốn giải thêm cho chư thiện tín thấy rằng, những người biết kính trọng pháp, khi nghe lời giảng giải của các bậc trí thức thì không màng đến chuyện đời, chuyện tài sản, của cải của mình, như ông trưởng giả trong tích truyện sau đây:
“- Có một ông trưởng giả có đức tin vào chùa nghe thuyết pháp. Trong khi ông đang trong sạch nghe pháp, thì ở nhà có bọn cướp đến vây nhà ông và tính cướp hết của cải của ông.
Khi ấy có một người trong gia đình ông trốn thoát, chạy đến chỗ trưởng giả đang nghe pháp, hối hả bảo với ông rằng: “Có một bọn cướp với giáo mác, gươm đao; chúng đã đến vây nhà rồi, xin chủ hãy về xem coi, nguy hại tới nơi rồi!”Ông trưởng giả thoáng nghe lời tâu báo của gia nhân, ông vẫn chăm chú nghe pháp, miệng trả lời: “Chúng nó mới vây nhà thôi, đã có nguy hiểm gì đâu, hãy về đi, để yên cho ta nghe pháp nào!” Người kia về nhà rồi trở lại bảo rằng: “Bây giờ chúng nó đã phá cửa vào nhà rồi, đang chuẩn bị lấy cướp của cải, tài sản - thưa chủ!” Ông bình tĩnh nói: “Ừ, kệ nó! Tài sản nào chính thật là của ta thì nó ở lại; bằng tài sản nào không phải là của ta thì cứ để chúng mang đi!” Rồi ông lại chăm chú nghe pháp nữa. Gia nhân trở lại nhà thì thấy bọn cướp đang khuân vác đồ đạc ra ngoài; người ấy trở lại lần thứ ba và nói với ông trưởng giả: “Bọn cướp đã mang rất nhiều đồ đạc ra khỏi nhà rồi”. Ông vẫn bình tĩnh đáp rằng: “Đức Phật dạy với ý rằng: Ngay cái thân này cũng không phải là ta, là của ta - huống hồ là tài sản ấy. Đã không phải là của ta thì bảo vệ, gìn giữ có được đâu - hãy cứ để chúng mang đi!” Gia nhân nghe chủ nói thế, không hiểu, y chán nản tận cùng, trở lại nhà lần thứ ba, bô bô nói với bọn cướp rằng: “Chủ nhân nhà này họ không màng đến của cải, vậy các người cứ tự do lấy gì tùy thích. Tôi đã bảo ông trưởng giả ba lần, nhưng tài sản ấy, ông ta không cần. Vậy các ông cứ tùy nghi mang vác hết đi!” Nghe câu nói lạ, bọn cướp đứng ngây người. Lát sau, một tên trấn tỉnh hỏi: “Vậy thì chủ của ngươi đang làm gì khi nói những lời ấy?” Tên gia nhân đáp: “Chủ tôi đang nghe pháp!” Y hỏi tiếp: “Vậy pháp là gì - mà đến độ ông ta không màng đến của cải, tài sản?” Tên gia nhân đáp: “Tôi cũng không biết!” Đến đây thì tên đầu nậu bọn cướp thở ra, lắc đầu, nói với đồng bọn rằng: “Hóa ra chúng ta ăn cướp cái mà chủ nhân đã quăng vất; vật mà chủ nhân đã không màng tới thì phỏng có giá trị gì nữa? Cái giá trị hơn thế nhiều, đấy chính là pháp. Vậy chúng ta hãy trả lại của cải cho người ta rồi cùng nhau đến chùa nghe pháp, xem thử nó là cái gì mà quý báu dữ vậy!”
Đến chùa, sau khi nghe pháp, bọn cướp lương tri được thức tỉnh, chán nản tội lỗi nên xin xuất gia, và đạt được đạo quả tuỳ theo duyên lành của mỗi người”.
Câu chuyện thú vị nầy cho ta thấy rằng, nhờ tôn kính pháp đúng mực nên ông trưởng giả không hề bị xao động tâm tư, dù mất hết của cải tài sản mà ông ta vẫn trầm tĩnh, thản nhiên xem như không có chuyện gì xảy ra! Vậy, hết lòng nghe pháp mới có được hạnh phúc như thế!
Đây là sự tôn kính pháp bằng cách nghe pháp, ngoài ra, đức Thế Tôn còn dạy một loại tôn kính pháp cao hơn một bực nữa, đấy là tôn kính pháp bằng cách thực hành pháp, đúng như câu Pāḷi: Dhammo garukatappo - người kính trọng pháp nên thực hành theo pháp. Người thực hành đúng theo pháp mới gọi là người kính trọng pháp thật sự.
3. Tôn kính Tăng: Tăng có hai hạng: Phàm tăng và thánh tăng. Tăng là các bậc đã ly gia cắt ái, thân xa mùi tục lụy, theo đạo nhiệm mầu; là bậc thừa hành theo chánh pháp, là ngọn cờ Phật giáo, là hướng đạo của tín đồ. Nếu không còn Tăng thì Phật giáo không còn.
4. Tôn kính điều học: Đây có nghĩa là hết lòng hành theo giới hạnh của mình, đã thọ trì rồi không cho phạm vào. Nghĩa là luôn luôn coi trọng giới hạnh của mình, cũng như là người đã bị mù mất một mắt rồi, cố giữ con mắt còn lại không cho đau. Đại ý nói rằng, phải cố gắng bài trừ những phiền não còn trong lòng, không dám dễ duôi, phóng dật.
5. Kính trọng thiền định: Tức là cố hành thiền định không hề dám xao lãng. Thiền định là pháp dạy tâm, kiềm chế tâm không để cho tâm xao lãng, phóng túng, bắt buộc tâm phải yên trụ. Nhứt là các bậc xuất gia, thiền định đối với quí ngài không khác nào cá với nước; ý tôi muốn nói là chúng không thể xa rời nhau được, vì người tu sống chết gì cũng phải biết giữ lấy tâm mình thôi, nhờ có thiền định là nấc thang đi đến Niết-bàn.
Trong bộ chú giải Visuddhimagga có nêu lên một ví dụ về lục dục ngũ trần, về trần cảnh rất hình tượng, rất ấn tương:
“- Trần cảnh ví như một thứ nhựa rất dẻo, rất dính. Mùa nắng, nhựa ấy chảy ra dưới gốc cây, trông thấy như một miếng nhung trải rất là đẹp. Có một con khỉ đến gần, thấy nhựa tưởng tấm nhung liền ngồi lên, thì lại bị dính cứng vào nhựa; khỉ cố hết sức để chống hai tay đứng lên, hai tay bị dính luôn; cố dùng hai chân chỏi dậy, nhưng rồi lại cũng bị dính vào. Sau rồi chỉ còn có cái miệng, khỉ cố cắn để gỡ ra - thì than ôi, cả cái miệng cũng bị dính vào nhựa ấy luôn!”
Con người cũng dính mắc vào một thứ nhựa, mà một thứ nhựa còn dẻo hơn nhựa kia không biết bao nhiêu lần mà kể, đó là nhựa trần tục. Khi còn trong tuổi thanh xuân thì được tự do, thư thả; đến hồi lập gia đình, có vợ là bắt đầu dính vào đít như con khỉ mới bị dính lần thứ nhứt; sau lại có con cũng như khỉ dính hay tay; khi có của tiền lại càng bị nhiều hơn như khỉ bị dính thêm hai chân; thêm có quyền cao, chức trọng nữa lại càng bị dính không thể nào cựa quậy được, cũng như khỉ mắc luôn cái miệng, chỉ có đợi chết thôi. Như vậy, tâm con người thường bị mắc vào vòng tài, tình, danh, lợi khó mà gỡ cho được; chỉ còn do nhờ thiền định là phương pháp chữa trị cái tâm bị phiền não ngự trị; nhờ có thiền định nên không tâm say mê trong trần cảnh.
Tôi kể thêm một chuyện nữa.
Thuở xưa, ở Ấn Độ, trước khi làm lễ hoả táng, người ta dùng chỉ buộc tay, chân và cổ người chết. Người ta chỉ theo phong tục ấy mà thực hành, kỳ thật họ không biết ý nghĩa ra sao. Có người đến hỏi vị đại đức tên là Kāla. Ngài mới dạy rằng: “Con người là cái vòng cột cổ, vợ là cái vòng buộc chân, tiền của là cái vòng buộc tay. Vì lòng thương con nên không tu hành được, chỉ biết lo kinh doanh hầu để sự nghiệp lại cho con, mà chính mình quên sẽ già và chết. Cũng vì yêu vợ, ráng lo bôn tẩu để tìm chút danh vọng để vợ được hãnh diện với đời, không nhớ rằng những tội lỗi mà mình đã làm không ai chịu thế cho được. Cũng vì thương yêu vợ con, nên có chân mà cũng không thể dùng chân ấy chạy khỏi vòng luân hồi, trái lại đi sâu vào luân hồi. Cũng vì thương vợ con và của cải, nên tay bị buộc không thể lấy của mà mình đã có đem ra cho ai cả, mặc dầu người ấy là bà con, quyến thuộc, nên cũng ví như dây buộc tay”.
Tục lệ nầy dạy con người gián tiếp rằng: Con người đến chết vẫn còn phải bị cột chặt vào ba mối là vợ, của và con. Thế thường thì tâm con người, từ xưa đến nay, bao giờ cũng vẫn ôm ấp, bám víu, luyến tiếc ba mối đó nên không hết khổ được, không giải thoát được.
Đức Phật dạy ta tôn kính thiền định, nghĩa là phải cố vâng giữ hành theo không gián đoạn được. Như tôi đã nói, thiền định là nấc thang thứ nhì (sau giới) để đi đến nơi giải thoát; vậy người biết mình còn trầm luân trong biển khổ nên cố gắng tham thiền. Đành rằng ta không thể giải thoát trong kiếp nầy, nhưng đó là duyên lành để trợ lực cho ta ngày vị lai, vì hiện giờ, nhờ có thiền định, ta đã mài giũa cho mòn đi hoặc đã làm cho lắng dịu được một ít phiền não rồi vậy.
Đời không phải do giàu sang, quyền chức mà có thể đem hạnh phúc lại cho ta được. Tiện đây tôi xin nhắc sơ lược sự tích của đại đức Bhaddiya để quí vị trông thấy gương lành của ngài.
“- Đức Bhaddiya là dòng Thích-ca, là một vị quan tổng trấn, thống lãnh cả một vùng, oai danh lừng lẫy. Sau lại, ông ta xuất gia và thường ngồi dưới cội cây nơi rừng thanh vắng.
Hôm kia, sau giờ thiền định, nội tâm sung mãn hỷ lạc, sung sướng do đạt được một hạnh phúc thâm sâu chưa hề có ở trong đời, bất giác, đại đức thốt lên: “Ôi! Hạnh phúc thay! Hạnh  phúc thay!” Các vị tỳ-khưu ở gần đấy, nghe được, hôm sau mới vào kể lại cho đức Thế Tôn nghe rồi kết luận rằng: Ngài đại đức Bhaddiya có lẽ vì luyến tiếc đời sống hầu thiếp vương giả nên giữa đêm hôm khuya khoắc lại thốt lên niềm khoái cảm trần tục khó nghe!”
Đức Thế Tôn cho gọi ngài đến và hỏi coi có phải như vậy không? Ngài đáp có. Đức Thế Tôn hỏi: “Vì sao ông đã xuất gia rồi mà lại nói câu ấy?”
- Bạch đức Thế Tôn, khi đệ tử còn làm vị quan tổng trấn, có thành trì kiên cố, có đội binh hộ phòng canh tuần cẩn mật, nhưng đệ tử vẫn còn e dè, lo sợ có thích khách; ngoài ra còn ngại bọn đạo tặc hung hãn, sợ quân xâm lăng của các tiểu quốc biên địa. Ngày nay, đệ tử xuất gia, từ bỏ quyền cao, chức trọng; ở nơi rừng sâu hang thẳm, cội cây vắng vẻ, không quyền, không chức, rỗng không mọi sở hữu - đệ tử không có bất cứ một lo sợ nào nên thấy lòng mình tự tại, an vui, hạnh phúc; lại nữa, đệ tử vừa nếm thưởng được chút ít hỷ lạc của thiền định, sung sướng quá nên đã cảm thán thốt lên câu ấy mà thôi!”
Sự tích nầy cho ta thấy rằng của cải, quyền chức không đem lại hạnh phúc, an vui thật sự mà thường tạo ra âu lo, kinh sợ. An vui, hạnh phúc thật sự là không có gì cả, vì người không có gì cả thì có còn gì đâu mà âu lo, kinh sợ? 
6. Tôn kính sự không phóng dật, dễ duôi: Không phóng dật, dễ duôi - ý nói không phung phí thì giờ quí báu của mình mà làm những việc vô ích.

Không phóng dật, dễ duôi - có hai phần:

- Không phóng dật, dễ duôi bậc thấp.
- Không phóng dật, dễ duôi bậc cao.

+ Không phóng dật, dễ duôi bậc thấp có 3 trường hợp.

a. Không phóng dật, dễ duôi trong sự diệt trừ tội lỗi do thân nghiệp và nên làm các việc thiện.
b. Không phóng dật, dễ duôi diệt trừ tội lỗi do khẩu nghiệp và nên nói lời  từ ái, dịu dàng, khuyến thiện.
c. Không phóng dật, dễ duôi trong sự suy nghĩ ác, nghĩa là không dám suy nghĩ ác, và cố dạy tâm suy nghĩ việc lành.

+ Về bậc cao cũng có ba trường hợp:

a. Không phóng dật, dễ duôi trong sự quan sát, gìn giữ tâm, không cho tâm tham lam theo trần dục trong khi có cơ hội gần gần gũi chúng.
b. Không phóng dật, dễ duôi để tâm sân hận, trong khi gặp trường hợp nóng nảy, bực mình, khó chịu.
c. Không phóng dật, dễ duôi để tâm si mê, u tối, lầm lạc, đắm đuối trong trần cảnh.
Người biết tôn trọng những điều kể trên gọi là người biết tôn trọng sự không phóng dật, dễ duôi.
7. Tôn trọng sự tiếp đãi: Sự tiếp đãi nầy là thuộc về phép xã giao lịch sự ở đời. Pháp nầy chia ra làm hai phần:
a. Tiếp đãi bằng tiền tài, nghĩa là khi có khách đến ta tiếp đón bằng những bữa cơm nước, chuyện trò thân mật vui vẻ, không tỏ vẻ bực mình.
b. Tiếp đãi bằng pháp, nghĩa là trong trường hợp thuận tiện, ta có thể khuyên người bỏ dữ về lành; hoặc dạy bảo thân bằng, quyến thuộc khởi tâm tu hành, biết bố thí, trì giới...
Sự tiếp đãi nầy có nhiều lợi lạc, là ta được sự quan tâm, thương mến, quý trọng của mọi người, có nhiều bạn lành; sau khi chết được sanh vào cõi trời, kiếp vị lai có nhiều quyến thuộc và khi đi lầm đường có các bậc trí thức nhắc nhở.

 Tóm lại, pháp tôn kính được những hạnh phúc sau đây:

1. Đại phước cho mình.
2. Giữ được lễ độ và phong hóa, mỹ tục của một dân tộc.
3. Là người tri thức, là người có giới đức, là người hành theo thiện pháp.
4. Có thể làm gương mẫu cho con cháu và người trong xã hội.
5. Là nguyên nhân làm cho nhiều người thương mến.
6. Là nguyên nhân sinh ra lòng từ ái đối với mọi người.
7. Là người có nhiều trí nhớ.
8. Là người không có sự hối hận trong tâm.
9. Là người đã chuẩn bị vật thực về ngày vị lai.
10. Là nguyên nhân sanh ra sự an vui.
11. Là người biết ngăn ngừa không bị việc ác xâm chiếm vào lòng và không sanh vào ác đạo.
12. Là người thỏa thích trong sự an lạc.
13. Là người chắc chắn sẽ sanh vào cõi trời.
14. Là nhân khiến cho được sanh vào gia đình quý phái.
15. Là người hành theo giới, định, tuệ.
16. Là người không làm mất minh sát tuệ và đạo quả.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét