HẠNH PHÚC II
Paṇḍitanañca sevanā: Thân cận với bực thiện trí thức
Thiện trí thức là người tương phản
với người ác.
+ Trí thức mà chúng ta thường hiểu, có hai hạng
khác nhau là:
1. Trí thức theo quan niệm của người đời: Hạng
nầy là những người học cao, hiểu rộng, có bằng cấp, học vị... ví như bác học,
triết gia, nhà nghiên cứu, nhà văn, giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư...
2. Trí thức theo quan niệm Phật giáo: Họ
có thể là trí thức như quan niệm của người đời; và cũng có thể không cần thiết
phải có bằng cấp, học hành gì ghê gớm! Trí thức, thiện trí thức - theo quan điểm
của Phật giáo - họ là người hoàn toàn trong sạch, không làm tội lỗi do thân, khẩu,
ý.
Như vậy, thiện trí thức là bực có thiện
tâm, thiện trí - không phạm vào thập ác, mà có những thái độ như lời Phật dạy
trong câu kệ Pháp cú sau đây:
“- Diṭṭhe dhamme ca yo attho
Yo attho samparayiko
Atthabhisamaya dhiro
Paṇḍitoti pavuccati”[vii].
Nghĩa là: Người hiểu lợi ích đời hiện tại,
lợi ích đời vị lai và lợi ích cao quý nhứt, đó là trí thức.
Hiểu lợi ích đời hiện tại là
không hành theo tà pháp, không làm trái luật của quốc độ, không làm phiền người
bên mình, tức là thọ trì giới luật của Phật.
Hiểu lợi
ích của vị lai là
hiểu rằng đời người không bền vững, của cải, tài sản không đem theo được xuống
mồ, nên không bỏn xẻn, ích kỷ, dám đem tiền của ra giúp đỡ người đời, bố thí
cơm áo cho những người đói khổ được nhờ.
Hiểu lợi ích cao quý nhứt là
do tu hành theo giới, định, tuệ trong kiếp hiện tại nầy để mau giải thoát khỏi
vòng sanh tử luân hồi.
Lời Phật dạy đó có thể giải một cách
thiết thực để chúng sanh hành trì cho đúng. Bực thiện trí thức theo Phật ngôn
đó, phải là người:
- Phân biệt được lẽ phải, lẽ trái.
- Biết cúng dường, làm phước (bố thí).
- Hiểu rõ nguyên nhân phát sanh điều lợi
lạc và nguyên nhân phát sanh điều tai hại.
+ Hơn nữa, bậc trí thức còn thực hành theo bốn điều
lợi ích khác là:
1. Uṭṭhānasampadā: Siêng
năng làm phận sự của mình. Một là siêng năng làm công việc có tiền phụng dưỡng
mẹ cha, giúp đỡ vợ con và quyến thuộc; nhưng việc làm ấy không thuộc về tà mạng
và tà nghiệp. Hai là siêng năng trau giồi thân, khẩu, ý cho trong sạch.
2. Rakkhāsampadā: Hết
lòng gìn giữ của cải đã có, về vật chất cũng như tinh thần.
Về vật chất: Đừng dễ duôi để mất và
tiêu phí tiền của, gia sản vào những việc như cờ bạc, rượu chè...
Về tinh thần: Ráng lo tu trì giới hạnh
của mình đã có - vì đây là của cải, tư lương rất quý báu ta có thể đem theo về
ngày vị lai...
3. Kalyāṇamittata: Có
bạn lành, nghĩa là nên thân cận với các bậc trí thức, bực có giới đức trang
nghiêm để học hỏi điều hay lẽ thiệt và cả các pháp giải thoát.
4. Sammājīvita: Nuôi
mạng chân chính, nghĩa là làm những nghề nghiệp nuôi mạng mà không phạm với luật
đời và luật đạo.
+ Ngoài bốn điều lợi ích kể trên, người gọi là trí
thức còn phải hành theo những pháp sau đây:
1. Saddhā: Có
đức tin - tin nhân quả và nghiệp.
2. Sīla: Trì
giới - người trí thức, nếu là tại gia cư sĩ, ít nhất phải có ngũ giới trong sạch,
trên nữa là bát quan trai.
3. Cāga: Bố
thí (dứt bỏ).
4. Paññā: Có
trí tuệ để nhận định lối tà, nẻo chánh và biết quán chiếu để thấy rõ ba tướng
vô thường, khổ não và vô ngã.
+ Trong bộ chú giải 38 pháp hạnh phúc còn có dạy
rằng: Phàm người trí thức còn có mười đức tính để chúng sanh có thể nhận biết
được, là:
1. Dhīro: Người
thông minh, hiểu biết (người
sáng trí).
2. Paññā: Người
có trí tuệ thấy rõ, biết rõ vô thường, khổ não, vô ngã.
3. Bahusuto: Người
nghe nhiều, hiểu rộng về pháp học.
5. Sīlasampatti: Người
có giới đức trong sạch.
6. Vatavanto [ix]: Bực có đức hạnh
thanh cao, nếu là bực xuất gia thì hằng giữ hạnh đầu-đà, nếu là cư sĩ thì hành
hạnh tri túc.
7. Ariyo: Bực
xa kẻ thù, nghĩa là xa phiền não (Bậc
cao thượng - thánh nhân)
8. Sumedho: Bực
có trí tuệ nghĩa là người ráng lo bồi đắp thánh tuệ là tuệ giải thoát.
9. Tadiso [x]: Người
có đức tin bất động - nghĩa là người có niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo, không
có gì có thể làm xao động, lay động được - mặc dầu là những miếng mồi cao quý đến
đâu.
+ Khi thân
cận với các bậc trí thức, phải thực hành như thế nầy thì mới có kết quả tốt:
1. Đến ở gần bên người.
2. Ngồi bên người để nghe giảng dạy.
3. Chú tâm nghe lời giảng.
5. Cố nhớ pháp đã nghe
6. Cố suy nghĩ về pháp đã nghe.
7. Khi suy nghĩ thấy rõ và biết rõ đó
là chánh pháp thì nên hết lòng hành theo.
8. Tinh cần thực hành thiện pháp.
9. Phải làm cho 3 điều thanh tịnh được
hiển lộ, đó là:
- Sīlavisuddhi: Giới
thanh tịnh
- Cittavisuddhi: Tâm
thanh tịnh
- Paññāvisuddhi: Tuệ
thanh tịnh.
10. Cố hành cho mau đắc đạo quả Niết-bàn.
+ Sự thân cận với các bậc trí thức có những kết quả
sau đây:
1. Được thông hiểu pháp học, pháp hành
và pháp thành.
2. Được làm ba điều lành là bố thí, trì
giới, tham thiền.
3. Được giác ngộ sáu điều mà đức Phật gọi
là cao thượng:
- Dassanānuttariya: Thấy
cao thượng
- Sotānuttariya: Nghe
cao thượng
- Lābhānuttariya: Được
cao thượng
- Sikkhānuttariya: Học
cao thượng
- Paricaraṇānuttariya: Hầu
hạ cao thượng
- Anussatānuttariya: Niệm (tùy niệm) cao thượng
4. Được hành theo pháp của các bậc trí
thức.
5. Không sợ có sự tai hại và oan trái.
6. Biết rõ đường sanh về nơi an lạc là
cõi trời và người; biết ác đạo mà lánh xa.
7. Tự mình được an vui.
8. Được sự khen ngợi của quần chúng nhứt
là của bậc có đạo hạnh thanh cao.
9. Có danh thơm đồn đãi đi mọi nơi.
10. Không bị đọa vào ác đạo.
11. Được an vui trong kiếp nầy và phước
báu cõi trời trong kiếp sau.
+ Sự thân cận với các bậc trí thức thật là hữu ích,
mặc dầu chỉ gần các ngài trong một thời gian thôi.
Các bậc trí thức ở nơi nào đều đem sự
an lành đến nơi ấy. Hơn nữa các vị còn tùy lúc, tùy thời cứu nguy cho kẻ khác nữa;
như tích của bà Hoàng hậu Mallikā của vua Ba-tư-nặc (Pāsenadi)có giải trong bộ kinh
Pháp cú quyển 3 [xii] như vầy:
“- Đêm nọ, đức vua Ba-tư-nặc nghe bốn
tiếng la thật to là: “Du, Sa, Na, So” làm ngài lấy làm kinh sợ. Sáng ngày lâm
trào, đức vua cho thỉnh các vị bà-la-môn chuyên về đoán điềm lành dữ vào triều
kiến và phán hỏi nguyên do.
Các thầy bà-la-môn ấy mới nói rằng:
- Tâu đại vương, đây là điềm bất thường,
có hại đến ngai vàng và bệ hạ nữa, nếu ngài không tế thần lửa.
Cách thức tế thần lửa ấy thật là dã
man. Trước hết phải tìm cho đủ một trăm giống thú đực và cái, trăm đồng nhi nam
và đồng nhi nữ. Rồi đào một cái hầm thật to, đốt lửa cháy hừng hực xong mới giết
cả thú và người, lấy máu đổ vào lửa.
Đức vua nghe lời tấu trình của chư vị
bà-la-môn, lấy làm kinh sợ, mới truyền lệnh phải lập đàn tràng để tế thần lửa
ngay tức khắc. Trong khi sắp làm lễ, thì đồng nhi nam nữ kêu gào, la khóc, những
con thú bị nhốt cũng sợ hãi kêu rống. Những âm thanh ấy làm náo loạn, vang động
cả không gian. Bà hoàng hậu nghe được, lấy làm lạ, mới vào hầu vua và hỏi tự sự.
Đức vua mới thuật chuyện ấy cho bà nghe, bà mới tâu rằng:
- Thật Hoàng thượng không thông minh
chút nào cả. Một khi gần bên ta có đức Giác Ngộ là Thiên Nhơn Sư, là bậc Đại
Trí Thức, mà không hỏi, lại đi hỏi các thầy bà-la-môn ấy.
Đức vua tỉnh ngộ mới vào hầu Phật và hỏi
về bốn tiếng lạ ấy. Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Bốn tiếng “Du, Sa, Na, So” ấy là của
bọn ngạ quỷ, vốn là quyến thuộc của ngài, đã chịu đói lạnh từ mấy kiếp Phật đến
nay; biết ngài sanh làm vua, muốn kêu cầu cứu ngài, để ngài làm phước hồi hướng
phước cho chúng thôi.
Đức vua nghe vậy lấy làm trong sạch,
khi về đến hoàng cung, ra lệnh thả hết người và thú sắp tế lễ. Ngày hôm sau, tổ
chức buổi bố thí, cúng dường lớn đến đức Phật và chư tăng để hồi hướng đến cho
ngạ quỷ thân thuộc nhiều đời kiếp. Nhờ vậy, chúng ngạ quỷ kia được thoát khổ và
được sanh thiên.
Từ đó, tất cả mọi người, ai ai cũng đều
tán dương ân đức của hoàng hậu Mallikā”.
Nhắc tích nầy cho ta thấy rằng các bậc
thiện trí thức hằng đem lợi ích đến cho tất cả mọi người - như trong trường hợp
trên thì được thoát khỏi sự ác độc của các thầy bà-la-môn - thường làm cho
chúng sanh kinh sợ. Chúng ta nên nhớ rằng, trí thức thật sự - không hẳn là người
học nhiều, hiểu rộng, có bằng cấp, học hàm, học vị hoặc khoác bên ngoài một bộ
đồ tu! Cần phải có trí tuệ để suy nghĩ và quan sát như những đoạn kinh dạy về
thiện và ác ở trên - mới phân biệt được kẻ ác và người thiện qua hành động, việc
làm và tính cách của họ.
HẠNH PHÚC III
Pūjāca Pūjanīyānaṃ: Cúng dường đến bậc đáng cúng dường.
Những nhà nông chuyên nghiệp, lúa đã về
đến sân nhà rồi, ấy cũng chưa phải là xong chuyện, còn phải làm thêm ba việc cần
yếu nữa là:
1. Phải sàng sảy, xả bỏ tất cả lúa lép.
2. Lấy phần lúa hạt chắc, phơi khô rồi
cất vào bồ.
3. Lựa loại hạt lúa tốt nhất để làm giống
cho mùa sau.
+ Người đã tu theo Phật cũng phải biết bắt chước
như “lão nông tri điền” kia:
1. Phải xa kẻ ác, như nhà nông sàng bỏ
lúa lép (Đã làm rồi - hạnh
phúc I)
2. Thân cận với bậc trí thức, như nhà
nông chọn hạt lúa chắc cất vào bồ để dành (
Đã làm rồi - hạnh phúc II).
3. Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường,
cũng như nhà nông lựa chọn giống lúa tốt để làm mùa sau (Đang làm - hạnh phúc III).
Phần đông chúng ta chỉ hiểu rằng, cúng
dường là lo sắm sửa nhang đèn, bông hoa dâng trước tượng Phật, hay dâng đến chư
đại đức. Hiểu như vậy cũng đúng, nhưng chưa rốt ráo, chúng ta còn cần phải hiểu
rõ thêm nữa là:
- Ý nghĩa của cúng dường.
- Nhân vật nào đáng cho ta cúng dường?
- Nguyên nhân cúng dường.
Cúng dường đúng lời Phật dạy có một ý
nghĩa cao sâu, mầu nhiệm vô cùng. Người có tâm trong sạch, đem lễ vật vào chùa
cúng Phật hoặc Tăng, người ấy là tốt đấy, là Phật tử thuần thành đấy - nhưng
chưa thông đạt rốt ráo ý nghĩa lời dạy của đức Toàn Giác.
Ở đầu
sách này, dưới mục “Nguyên
nhân có pháp hạnh phúc” chúng
ta đã phân biệt 38 pháp hạnh phúc, chia làm hai loại:
- Một loại
của người trí thức học nhiều hiểu rộng - quan niệm như thế nào rồi tự tin, tự
thực hành như thế ấy.
- Loại thứ hai là của đức Phật, dựa vào
sự thấy biết của ngài, qua kinh nghiệm tâm linh tu chứng mà ngài đã giác ngộ dưới
cội Bồ-đề, sau bao nhiêu A-tăng-kỳ kiếp.
Tôi xin nhắc lại trong 38 pháp hạnh
phúc - đức Phật đã hành trì, đã chứng nghiệm nên ngài đã thuyết ra 38 cách thức,
trường hợp và thứ loại khác nhau. Sự cúng dường là một chi, trong 38 chi, hay là một hạnh, trong 38 hạnh mà Phật tử phải hành
theo.
Trước hết nên hiểu rõ tiếng pūjā (cúng dường) nghĩa là gì? Chúng ta thường lầm lẫn sự
cúng dường ấy tương tợ chữ dāna, nghĩa là bố thí, trong pháp hạnh phúc
thứ 15. Sự cúng dường trong ngụ ý ở lễ bái, ở đây, phải được thể hiện một cách
trang trọng và long trọng hơn. Vì sự kính trọng, tôn kính như thế mới được gọi
là cúng dường.
Theo sách chú giải, sự cúng dường ấy,
được gọi là pūjā thì phải có đầy đủ ba tánh chất
sau đây:
- Paggaṇha: Ca
tụng, tán dương.
- Sakkāra: Vật
để cúng dường phải trân trọng.
- Samaṇa: Nhân
vật đáng kính trọng
1- Paggaṇha: Ca
tụng - nghĩa là tán thán, ca tụng nhân vật mà ta cúng dường, như ta ca tụng ân
đức Tam Bảo theo kinh Tam Bảo. Hoặc như ta tán thán rằng, Phật là đấng Đại từ
bi, thực hành trọn đủ ba-la-mật để tìm đường giải thoát tế độ cho chúng sanh.
Pháp là con đường đức Thế Tôn đã đi đến nơi vô sanh bất diệt. Tăng là bậc đã
lìa xa thế tục, bỏ mọi dính mắc, đam mê, bỏ cả chính bản thân mình để cần cầu
giải thoát; là bậc thấy biết rõ rệt vô thường, khổ não, vô ngã - và cố
hành trì tu tập để ra khỏi luân hồi; là bậc đáng thay mặt đấng Giác Ngộ dắt dẫn
chúng ta ra khỏi bể khổ trầm luân.
2- Sakkāra: Vật
cúng dường, đây là những vật dụng đem đi cúng dường cho nhân vật mà mình muốn
cúng dường, thể hiện lòng sùng bái của ta đối với nhân vật ấy và cũng thể hiện
hạnh bố thí của ta.
3- Samaṇa: Kính
trọng, là kính trọng một nhân vật nào mà ta đem lễ vật đến dâng, nhưng ta không
có tâm mong muốn một tư lợi nào do người ấy ban bố cho ta.
Tóm lại, sự cúng dường phải có đủ ba
tính chất do sự ca tụng, vật cúng dâng và nhân vật thọ nhận sự cúng dường.
Sự cúng dường cũng như cái ăn. Ta chẳng
nên nghĩ rằng ăn gì cũng được miễn là no bụng thôi. Nghĩ vậy là sai lầm. Ta cần
ăn, nhưng phải là món ăn bổ ích cho cơ thể ta, nếu không bổ ích cũng không
phương hại đến sức khỏe ta. Sự cúng dường cũng vậy, ta phải biết chọn lễ vật
thích đáng để cúng dường.
Nhân vật mà ta
cúng dường là ai?
- Người.
- Lời giảng dạy.
- Và một số người.
Người thọ cúng là một vị nào, một đấng thiêng liêng hoặc một vị
giáo chủ nào hay là một bậc có công đức đối với chúng ta? Như cha mẹ và đức Phật
là hai bậc đáng cho ta cúng dường.
Lời giảng dạy tức là Pháp bảo, tức là lời giảng dạy của đức
Phật, cũng là con đường mà chư Phật tử đang noi theo để đi đến cõi người, trời
và Niết-bàn.
Và một số người, cùng một nhóm người - tức thị chư Tăng, là bậc
có giới đức thanh cao, người thoát khỏi vòng của sắc tài, danh lợi, là người
giương cao ngọn cờ của Phật giáo, là người có thể thay thế Phật để dạy tín đồ,
là vị có chí hướng thanh cao, có đức từ, bi, hỉ, xả.
+Có hai hạng người xứng đáng
thọ cúng dường là:
1. Người có công đức
cao vợi và vô lượng như đức Phật, là đấng có đủ trí minh, hạnh minh; là đấng
tìm ra con đường giải thoát, giáo hóa chúng sanh không nài cực nhọc.
2. Người có công
sanh dưỡng là cha mẹ; và người có công chỉ dạy con đường giải thoát cho ta là
chư tăng và các bực thầy tổ.
Nói tóm lại, sự
cúng dường và sự đền ơn khác nhau. Ta có thể cúng dường chư Phật, vì chư Phật dạy
đời không vì tư lợi hay bởi danh vọng, cũng không mong được chúng sanh kính nể,
mà chỉ dạy đời với tất cả tấm lòng từ bi, thương xót chúng sanh phải luân hồi
khổ não, chẳng khác nào người mẹ hiền thương con dạy con với tấm lòng như trời
như biển.
Còn cha mẹ nuôi
con cũng chẳng cần sự đền đáp, mà cũng không bao giờ kể công với con. Cha mẹ là
đức Phật đối với con. Người không phụng thờ cha mẹ mà cúng dường đến đức Phật,
thật không bổ ích vào đâu cả, đúng với câu: “Phật
trong nhà không thờ, đi thờ Thích-ca ngoài đường”.
Như vậy, ngoài hai
đối tượng trên mới xứng đáng được gọi là cúng dường; còn trên thế gian, những
người giúp đỡ ta, có ân với ta thì ta chỉ nên đền đáp - vì nhớ ơn chứ không phải
cúng dường!
+ Cúng dường có
nhiều ý nghĩa như là:
1. Cúng dường có
nghĩa là, đệ tử đem lễ vật đến dâng cho thầy tổ để tỏ lòng biết ơn các ngài đã
chỉ dạy cho mình con đường giải thoát.
2. Cúng dường có
nghĩa là, kính trọng các bậc có ân đức cao thượng, là có tuệ giải thoát khỏi
luân hồi sinh tử.
3. Cúng dường theo
ý 38 điều hạnh phúc của đức Phật đã dạy là: Khi mình đã hiểu ra nhân vật mà
mình hiểu, hiểu rằng nhân vật ấy là bậc thánh nhân, còn nếu không phải là thánh
nhân chăng nữa, cũng là người đang thực hành con đường đến nơi giải thoát. Hiểu
như thế rồi ta hết lòng kính trọng, hành theo lời giảng dạy của đức Thế Tôn -
vì hành theo thánh đạo để tự giải thoát cho mình cũng là cúng dường cao thượng
mà chư Phật và chư thánh nhơn thường lấy làm hoan hỷ.
4. Cúng dường cũng
có nghĩa là lễ bái với tất cả tấm lòng cung kính đến đấng có ân đức cao thượng
là:
- Paññāguṇa: Ân đức là trí tuệ (Tuệ đức).
- Karuṇāguṇa: Ân đức là tâm bi mẫn (Bi đức)
- Visuddhiguṇa: Ân đức là trọn lành (Tịnh đức).
+ Cúng dường có hai thể cách:
- Amisapūjā: Cúng dường bằng vật dụng, như là cơm, nước, y
phục, chỗ ở và thuốc men.
- Paṭipattipūjā: Cúng dường bằng sự hành đạo để mau tới nơi giải
thoát, như người tại gia cư sĩ, khi tin theo lời Phật dạy thì quy y Tam Bảo,
hành theo ngũ giới, bát quan trai giới; lại có thể cố gắng tham thiền để mau dứt
trừ hoặc lắng yên phiền não. Đây gọi là cách cúng dường cao thượng đến chư Phật.
Đây, để giải rộng
về hai thể cách cúng dường ấy, tôi xin nhắc lại sự tích của một phụ nữ nghèo
cúng dường đến đại đức Ca-diếp...
“- Gần thành
Rājagaha có một hang động tên Pipphali. Trong hang động ấy có đại đức Ca-diếp
nhập đại định bảy ngày. Sau khi xả định, ngài dùng thiên nhãn xem thử người nào
có duyên với ngài. Xét thấy một cô gái rất nghèo đang canh giữ ruộng bắp là hữu
duyên - nên ngài ôm bát khất thực đi đến nơi ấy. Khi trông thấy đại đức Ca-diếp,
cô liền phát tâm kính thành và rất trong sạch, thầm nghĩ rằng:
- Nhiều khi ta có
vật cúng dường lại không gặp đươc ngài; đôi khi gặp được ngài lại không có vật
để cúng dường! Hôm nay, thật là hy hữu, ta có vật cúng dường lại gặp được ngài!
Ôi! Thật là quý hóa biết chừng nào!
Vật mà cô ấy hiện
có là hột nổ (bắp rang). Cô liền đem một bát hột nổ ấy dâng cúng đến ngài Ca-diếp
rồi phát nguyện rằng:
- Bạch ngài, duyên
lành của đệ tử gieo trồng hôm nay, xin cho đệ tử đắc những pháp mà ngài đã đắc!
Rồi ngài ra về. Cô
giữ ruộng bắp được làm phước trong lòng vui thích vô cùng. Khi ấy, vì vô ý cô lại
đạp nhằm một con rắn độc, cô bị rắn cắn chết liền tại chỗ. Vì trong khi chết
tâm cô vui với phước, cô được sanh về cõi trời Đao Lợi; ví như người đang ngủ
giựt mình tỉnh dậy, cô thấy cô đang ở trong một tòa lâu đài bằng vàng”.
Tích nầy còn dài
hơn nhưng chỉ nhắc sơ lược để chúng ta dễ nhớ và thấy rằng, sự cúng dường đến
các bậc đáng cúng dường có được nhiều hạnh phúc như vậy. Sự tích cô giữ bắp còn
cho ta thấy rằng, sự bố thí hay cúng dường của ta không quá thiên trọng về vật
chất (vật ấy tốt, nhiều, có
giá trị) - mà quý ở tấm lòng
trong sạch và sự thành kính của chúng ta. Chúng ta không nên nghĩ rằng, giàu
hay nghèo - phải tùy theo hoàn cảnh của mỗi người - chính tấm lòng trong sạch
và sự thành kính của mình lúc cúng dường mới là điều đáng quý.
Sự cúng dường vật
dụng bằng tấm lòng trong sạch đã cao quý như thế, nhưng sự cúng dường bằng hành
đạo giải thoát còn vô cùng cao quý hơn thế nữa.
Cúng dường đến đức
Phật, cao thượng hơn hết là quyết tâm thọ trì giới hạnh cho tinh nghiêm, hành
thiền định cho tinh tấn, dùng trí tuệ quán xét ba tướng để giải thoát sinh tử.
Khi đức Thế Tôn sắp
nhập diệt dưới cội Sālā, chư thiên, phạm thiên đem các kỳ hoa dị thảo lại cúng
dường đức Phật, chất cao như núi, rải đầy cả mặt đất. Đức Thế Tôn trông thấy
như vậy mới gọi tôn giả Ānanda đến mà dạy rằng: “Sabbaphāli phulla kho ānanda
yamakasālā alakapuppehi tathāgatassa sariraṃ okiranti...”
- Nầy Ānanda! Hai
cây Sālā trổ bông sái mùa và rụng trên mình Như Lai, đó là tỏ ý cúng dường Như
Lai. Bông Mandārava (Tàu âm là
hoa Mạn-thù) từ trên không
rơi xuống trên mình Như Lai cũng tỏ ý cúng dường Như Lai. Những tiếng đờn ca,
kèn trống ở trên không, đều là những phẩm vật cúng dường Như Lai cả. Nhưng mà nầy
Ānanda! Như Lai không cho rằng cúng dường trọng thể như vậy là kính mến Như Lai
đâu! Nầy Ānanda! Nếu các đệ tử trong hàng tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, cận sự nam, cận
sự nữ là người cố gắng hành đúng theo lời dạy bảo của Như Lai, ấy mới gọi là
người kính mến, yêu thương và cúng dường trọng thể đến Như Lai. Vậy, ai là những
đệ tử sống trong giáo pháp của Như Lai nên học thuộc lòng rằng:“Chúng ta tôn
trọng chánh pháp - thì phải hết lòng thực hành chánh pháp không dám dễ duôi,
phóng dật!” Các người nên nhớ
như vậy!
Đức Thế Tôn còn dạy
thêm rằng:
- Ānanda nầy! Như
Lai không phải là đấng để chúng sanh cúng dường bằng các vật cúng dường như vậy.
Những công đức mà Như Lai đã phát nguyện dưới chân của các đấng Giác Ngộ, nhất
là đức Phật Nhiên Đăng - không phải là để ước muốn những vật cúng dường tầm thường
ấy!
Do vậy, trong
Nikāya, kinh Parinibbāna, đức Phật có dạy rằng: “Như Lai không phải là đấng cho mọi
người cúng dường hương hoa cũng như các lễ phẩm nào khác!”
Lời dạy trên đây về
sự cúng dường, mới nghe qua, tựa hồ như không nhất quán với nhiều lời dạy khác
rải rác ở trong Tam tạng - về quả báo của sự cúng dường! Ví như có đứa trẻ cúng
dường đến đức Phật một nắm đất sau được quốc gia, lãnh thổ - như vua Asoka! Ví
như rất nhiều người khác, với vật thí nhỏ mọn không đáng kể, nhưng với tâm tín
thành, trong sạch, dâng cúng đến đức Phật đã có được phước báu vô lượng! Thật
ra, những lời dạy sai khác, cho nhiều căn cơ trình độ khác nhau, tùy lúc, tùy
hoàn cảnh, tùy căn cơ - chúng không những không mâu thuẫn mà còn bổ túc cho
nhau hoặc từ nghĩa cạn đến nghĩa sâu của sự cúng dường vậy. Ta nên biết rằng, mọi
hương hoa, lễ phẩm hoặc cho đến tối thượng của tài thí chỉ đưa đến phước báu
nhân thiên; nhưng sự cúng dường bằng cách thực hành pháp, không những có phước
báu nhân thiên mà còn chứng đắc tứ quả, tứ thánh và Niết-bàn. Vậy, đâu cạn, đâu
sâu, đâu cao thượng hơn, chúng ta thấy biết tức khắc! Còn nữa, sở dĩ đức Phật dạy
đi, dạy lại như thế là vì tâm từ bi vô lượng vô biên của ngài - muốn chúng sanh
cúng dường ngài bằng công đức tu hành của mình chứ không phải bằng lễ phẩm vật
chất. Và đây cũng là bài học còn nóng hổi, còn giữ nguyên vẹn giá trị trong thời
đại chúng ta. Biết bao nhiêu thầy tỳ-khưu hiện nay không chịu tu tập giới định
tuệ, mà chỉ lo chỉ bày cho thiện nam tín nữ cúng dường vật này, vật nọ; xây dựng
muôn nghìn cái tháp, mấy triệu cảnh chùa để chứng tỏ Phật giáo đang thạnh hành!
Chỉ có những thiện trí thức thực sự, những bậc tu hành chân chính mới nhận thức
đúng đắn lời dạy bảo của đức Phật: Thực hành theo chánh pháp, hướng dẫn muôn
người thực hành theo chánh pháp - thì lúc ấy Phật giáo mới thực sự hưng
thịnh, mới trường tồn!
Lời dạy về sự cúng
dường trên đây có nhiều lợi ích là:
- Tín đồ tuân thủ
thực hành theo chánh pháp để mau giải thoát.
- Khi thực hành
đúng theo kinh luật thì Phật giáo không bị suy đồi, tàn mạt.
- Các vị tỳ-khưu
không thể lợi dụng sự lập chùa, đúc tượng... để thủ tư lợi.
Đức Thế Tôn dạy
cúng dường cao thượng như thế chỉ có một ý cao sâu mầu nhiệm, là ngài muốn
chúng sanh phải ráng lo tu hành, mau giải thoát khỏi luân hồi và không muốn để
các vị tỳ-khưu bất chính khai thác lòng tín ngưỡng của tín đồ, để mưu lợi riêng
cho cá nhân mình. Sự thật, khi tín đồ hiểu thông lý đạo, thì dầu chư Tăng có cấm
họ cúng dường, họ vẫn cúng dường như thường, vì họ nhận thấy rằng đó là phận sự
của cư sĩ tại gia - đồng thời, nó cũng là một phương pháp đối trị và diệt trừ
phiền não là lòng tham lam trong chính họ.
Đức Thế Tôn không
khen ngợi sự cúng dường bằng vật dụng tài thí ấy, ngài lại khen cúng dường bằng
sự hành đạo rằng:
- “Nầy Ānanda!
Trong hàng tứ chúng, có một người nào hành đúng theo phận sự của mình, người ấy
gọi là người cung kính và cúng dường đến Như Lai. Vì lẽ ấy, các người hãy lo thực
hành theo chánh pháp” (Dīghanikāya, kinh Parinibbāna).
Những lời Phật dạy
trên đây thật là quý báu vô cùng! Giờ phút nhập diệt đã kề rồi, mà ngài vẫn
không quên những đứa con nhỏ dại, đang ở trong những cảnh ngộ giữa nhiều cám dỗ
và cạm bẫy của ma vương, nên ngài có dặn lại câu cuối cùng như thế. Chúng ta là
hàng Phật tử chân chánh nên nhớ câu nầy mà chăm chuyên hành đạo để khỏi phụ ân
ngài.
Ngày rằm tháng
giêng đức Thế Tôn cho các hàng đệ tử hay rằng còn ba tháng nữa ngài sẽ nhập diệt.
Các vị tỳ-khưu còn tâm phàm cất tiếng than khóc, tiếc thương. Duy có một vị đại
đức tên là Tissa không đau buồn, thở than gì cả vì ngài nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn sẽ nhập diệt vào ngày
rằm tháng tư mà tâm ta vẫn còn nhiều phiền não, vậy ta phải đạt cho kỳ được
A-la-hán quả trong khi ngài còn hiện tiền”.
Rồi tỳ-khưu Tissa
kiếm nơi vắng vẻ, an tịnh để gia công tu tập thiền quán.
Chuyện ấy thấu đến
tai đức Thế Tôn, ngài cho mời vị ấy lại và hỏi sự thật như thế nào?
Vị đại đức bèn
thưa rằng:
- Bạch đức Thế
Tôn! Đệ tử xuất gia đã lâu nhưng chưa đắc đạo quả gì cả, nên tự xét rằng, đệ tử
không xứng đáng là Phật tử biết kính thương đức Từ Phụ.
Đức Thế Tôn đáp:
- Lành thay! Nầy
các thầy tỳ-khưu! Người nào thật biết kính thương Như Lai, kẻ ấy nên thực hành
như Tissa, vì những người cúng dường ta bằng vật phẩm, tràng hoa... không gọi
là cúng dường ta, chỉ có người thực hành theo chánh đạo mới gọi là người cúng
dường Như Lai một cách xứng đáng, một cách rất chơn chánh vậy.
Rồi ngài thuyết
câu kệ:
“- Pavivekarasaṃ
pipvā
Rasaṃ up asamassa
ca
Nyddaro hopi
nippāpo
Nghĩa là: Các bậc thánh nhơn hưởng vị của thanh tịnh, vị của vắng lặng, vị của hỷ lạc
trong thiện pháp (đạo quả và
Niết-bàn), các ngài biết rõ sự
nóng nảy của phiền não không còn nữa, hoàn toàn trong sạch và vô tội.
Tóm lại, sự cúng
dường cao quý nhất trong Phật giáo là thực hành đúng theo chánh pháp để giải
thoát cho bản thân mình. Nếu tất cả hàng tứ chúng đều hành theo lời Phật dạy,
thì Phật giáo sẽ còn hưng thạnh đến năm ngàn năm.
[iv] 12 bất thiện tâm: 8 tham, 2 sân, 2 si. 14 bất thiện tâm sở:
Si, vô tàm, vô quý, trạo cử, tham, tà kiến, mạn, sân, tật, xan, hối, hôn trầm,
thụy miên, nghi.
[v] 12 bất thiện tâm và 14 bất thiện tâm sở là nguồn gộc của mọi
tội ác, tội lỗi, xấu xa trên trần đời. Còn tâm không tham thiền, không bố thí
được hàm chỉ khi tâm bị lu mờ, bị che khuất bởi những triền cái; ở đây chính là
hôn trầm, thụy miên, trạo cử, phóng dật...
[x] Không tìm ra nghĩa như đã giải thích. Có một từ gần giống tự
dang: Tādisa: Như vậy, với khả năng như vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét