KỆ NGÔN I
HẠNH PHÚC I
Asevanā ca bālānaṃ: Không thân cận với kẻ ác
Trên thế gian nầy có nhiều giống người,
chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung quy có thể chia hai hạng
người là:
- Bālā: Là ác.
- Paṇḍita: Là thiện tri thức.
Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết
người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào
chạy khỏi quả báo đau khổ trong bốn con đường ác.
Vì vậy người ta nên học để hiểu rõ thái
độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết chúng ta phải
biết rằng, người ác họ không khác gì ta ở thể chất, hình tướng hoặc dong mạo!
Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học
hoặc bệnh tật; mà có khi họ là người cao sang, quyền quý, học thức, thượng lưu
trong các giai cấp xã hội. Người ác ở khắp mọi nơi, mọi giai cấp, giai tầng,
giàu nghèo, trí ngu gì đều có thể có người ác. Muốn tìm biết, xác định và nhận
diện một người ác, là một chuyện không phải dễ dàng vậy.
+ Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để ta có thể
nhận ra người ác là:
1. Cách thức của các bậc trí thức giàu
kinh nghiệm, từng trải việc đời - họ hiểu rõ tâm lý của người ác.
2. Cách thức của đấng Giác Ngộ, ngài hiểu
rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.
Mặc dầu là đấng Giác Ngộ hay các bậc
trí thức, hai cách thức ấy chung quy đều dạy tâm lý của con người ác để chúng
ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh
và tìm cách tránh xa căn bệnh ấy.
Vậy, thiết tưởng chúng ta cũng nên học
cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ác ấy.
Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ
ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức.
Đây tôi xin nhắc lại tích xưa tiền thân
của đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quý vị dễ nhận thức:
“- Thời quá khứ, có một vị trưởng giả ở
thành Ba-la-nại (Bārāṇasī) tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng, ông nhận thấy
đời là vô thường, khổ não, vô ngã; khi mà ba tấc hơi chấm dứt rồi, thì mọi vật ở
đời, cho chí bản thân đều không thể mang theo được. Vì nghĩ vậy nên ông mới bố
thí hết của cải, tài sản - không biết số lượng bao nhiêu mà kể - rồi xuất gia
làm đạo sĩ ở trong rừng sâu tuyết lãnh.
Đạo sĩ Akitta hành theo hạnh tri túc,
chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên mà thôi. Pháp hành cao thượng như thế
của đạo sĩ đã làm cho tảng đá ngai vàng của đức Đế Thích nóng rực lên. Khi ấy
Thiên vương mới hiện xuống và nói với ngài:
- Bạch đạo sĩ, tôi lấy làm trong sạch với
hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi hiện xuống đây và xin hứa với ngài rằng: Ngài
mong ước điều gì, có sở nguyện như thế nào, tôi xin vui lòng giúp ngài đạt thành
như ý!
Đạo sĩ Akitta đáp rằng:
- Tâu Thiên chủ! Lời hứa của ngài thật
là quý giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó.
- Tôi biết rồi - Thiên vương nói - Đạo
sĩ có một đời sống tri túc và dị giản; chẳng lẽ sở nguyện của ngài cũng tương tợ
như lá cây, trái cây rụng này chăng?
Đạo sĩ nói:
- Tâu Thiên vương! Hiện giờ lá và trái
cây vẫn còn, bần đạo không mong ước điều đó! Nếu đại vương có lòng từ bi thì
hãy ban bố một pháp hạnh phúc cho bần đạo...
Đức Đế Thích nói:
- Đạo sĩ cứ nói, chẳng cần phải dè dặt
gì cả! Cứ thật tình mong ước điều chi, ví như thuốc men, y phục... chẳng hạn -
tôi sẵn lòng tuân theo sự sai bảo của ngài...
Đạo sĩ lắc đầu:
- Không! Tôi không cần những thứ ấy.
Đức Đế Thích nóng lòng hỏi:
- Vậy ngài cần thứ gì?
Đạo sĩ Akitta chậm rãi:
- Điều cần thiết nhất là “Xin cho tôi đừng
gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào”.
Đức Đế Thích hỏi lại cho kỹ:
- Vậy, lời thỉnh cầu của ngài là không
bao giờ muốn gặp kẻ ác! Điều ấy còn có nghĩa là, dẫu tin tức của kẻ ác cũng xin
không muốn nghe đến, nhắc đến?
Đạo sĩ gật đầu:
- Phải đúng như vậy!
Đức Đế Thích tò mò hỏi:
- Bạch đạo sĩ! Xin ngài có thể cho tôi
được biết, là người ác đã từng làm gì đối với ngài trong quá khứ, để ngài phải
sợ hãi dường vậy?
Đạo sĩ đáp:
- Thôi đi, thưa Thiên chủ! Đừng bắt tôi
nói lại chuyện đã qua của kẻ ác! Nhưng tôi có thể nói sơ lược hành động của kẻ
ác là:
* Kẻ ác hằng rủ người khác làm điều sai
lầm.
* Kẻ ác làm những chuyện không phải phận
sự của mình.
* Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy
là phải!
* Kẻ ác, mặc dầu chúng ta nói ra sự
chân thật, lời hay lẽ phải, nó cũng không đúng đắn nhận thức, lại còn hờn giận,
chuốc oán, gây thù nữa.
* Kẻ ác
không chịu hành theo luật lệ hoặc luật pháp của một nơi chốn, một xứ sở, một quốc
độ.
Thưa Thiên vương, xét rằng người ác thường
hay có những điều xấu xa như thế, nên ở gần chúng, gặp mặt chúng, nghe tin tức
về chúng, tôi đều không muốn, đều nguyện được lánh xa! Vậy, với oai lực của đấng
Thiên chủ, xin ngài hãy cho tôi được thỏa nguyện ước vọng ấy!”
Câu chuyện chấm dứt ngang đó, nhưng có
lẽ tất cả chúng ta đều biết rằng, dẫu với oai lực của trời Đế Thích, ông ta
cũng đành chịu, không thể nào thỏa mãn được ước nguyện cao vợi, tối thượng của
bậc Đại chúng sanh!
+ Dưới đây tôi xin giải 5 loại hành động
của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.
1-
Anayaṃ nayati dummedho [i]: Kẻ
ác thích rủ rê, xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm
điều xấu quấy, sai lầm.
Khi muốn biết một người là thiện hay
ác, chúng ta nên để tâm xem coi người ấy rủ rê, xúi giục ta làm những việc gì,
điều gì; mà việc ấy, điều ấy là tốt hay xấu, thiện hay ác?
Ta chớ nên quên rằng: Người ác bao giờ
cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết,
không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ, du đãng; trái lại lắm
khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang, vinh dự; và
cũng có khi chúng ta tin tưởng, sùng kính xem họ như bậc tu hành chơn chính, là
vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái, cúng dường của chúng ta, hoặc ta xem họ là
người nối chí từ bi của đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không
nên tin càn, tưởng quấy thiếu suy xét, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định
kẻo sai lầm - như tích vua A-xà-thế dưới đây:
“- Ông Đề-bà-đạt-đa là một vị đệ tử của
Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm; nhưng thật sự
ông ta là người rất là ác, đã dụ dỗ, xúi giục vua A-xà-thế tin tưởng nơi ông -
vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa, nhà vua tuy có nhiều đức tin
nhưng thiếu trí tuệ - bị Đề-bà-đạt-đa rủ rê xúi giục mới phạm tội trọng giết
cha”.
2-
Adhirāyaṃ niyuñjati: Kẻ
ác thường làm những chuyện không phải là phận sự, là trách nhiệm của mình.
Trường hợp này, có nghĩa là kẻ ác thường
hay can thiệp vào việc làm của người khác, ở gần bên mình hay với mọi người, chỉ
khiến cho người ta bực mình, khó chịu, đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại
ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy mà có kẻ khác chen vào, gợi ý việc
này, bày mưu điều nọ, chúng ta nên cẩn trọng, suy nghĩ cho kỹ, không nên vội
tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta.
Tiện đây tôi xin kể một câu chuyện để
quý vị suy gẫm:
“- Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò
bay thẳng cánh, bề làm ăn rất phát đạt, tấn tới - nhờ tá điền và người làm công
đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ
để giữ nhà.
Đột nhiên, về sau, lợi tức của ông ngày
càng suy giảm, kém đi trông thấy. Ông ta lấy làm lạ, vì số ruộng và người làm
công đều như cũ, và cũng không có ai thiếu công, mắc nợ. Ông hỏi lại người quản
gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Điều tra mãi không ra duyên cớ, ông mới
hỏi người chăn bầy trâu bò của ông, chừng ấy mới vỡ lẽ ra rằng: Bầy chó dữ của
ông không giữ nhà, mà hằng ngày nó đi cắn trâu bò làm cho chúng không ăn uống
gì được, vì vậy mà chúng ốm đói, gầy yếu nên không có sức lực để cày ruộng
hoặc kéo xe nữa! Lợi tức bị sút giảm là do vậy!
Biết vậy, ông trưởng giả đem bầy chó nhốt
lại - từ ấy lợi tức về đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường”.
Qua câu chuyện ấy, ta thấy bầy chó đã
không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai
hại cho chủ như thế.
Xin nhắc thêm một tích nữa, tuy hơi
ngây ngô, nhưng cũng gợi cho chúng ta một bài học nào đó liên hệ đến chủ đề:
“- Có một người làm vườn của vua
Ba-la-nại (Bārāṇasī), y tính đi xem lễ bèn gọi người phụ tá lại bảo:
- Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy
các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ quên nghe.
Khi người làm vườn đi xong, người phụ
tá ấy mới gọi những người làm công trong nhóm, bảo rằng:
- Người làm vườn đối với ta thật là tốt.
Vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới chúng ta hãy nhổ hết
cây lên coi rễ ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó.
Tất cả những người kia vâng lời, làm y
như lời dạy bảo, những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết”.
Đức Bồ Tát, tiền thân của Phật Thích
Ca, nghe thấy chuyện này, ngài mới nói rằng: “Những
kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, đành hanh suy nghĩ việc làm ngoài phận
sự cho phép nên đem tai hại đến cho mình và cho người khác”.
Khi ấy ngài mới đọc câu kệ với nghĩa là: Người ngu muội dầu cố làm điều lợi
ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại bị hư hại cũng như những
người làm vườn kia vậy.
3-
Dunnayo seyyaso hoti: Kẻ
ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
Theo câu Pāḷi nầy, ta thấy sự nhận thức
nầy có hai điều tương quan, liên hệ với nhau là: Nhận thức sai lầm và hành động
sai lầm - đều bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.
Nguyên người ác thường thích điều hung
ác, xấu xa như hiếp đáp, cướp giựt, hành hung kẻ khác. Ai ai cũng thấy các điều
đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng kẻ ác thì trái lại, cho các điều đó là cử
chỉ anh hùng, là hay, là giỏi - nên có khi còn đem những hành vi xấu ác ấy khoe
khoang và lấy làm tự đắc.
+ Người ác thường có ba đặc điểm để cho ta nhận
thức được dễ dàng:
a- Người ác thích quấy.
b- Tự mình làm điều ác, mà không biết
ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.
c- Thấy
kẻ khác làm ác thì rất thích thú và khi nghe người khác làm ác như mình, lại
càng thích.
Những người ác ấy luôn thù ghét người
lương thiện, coi người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện
vẫn sợ họ và hay nhường nhịn họ trong mọi việc, mọi lúc, mọi khi.
4- Sammāvutto pi kuppati: Kẻ
ác, mặc dù chúng ta nói lời chơn chất hay nói đúng sự thật, chúng cũng tức giận.
Tâm lý của người ác, theo câu nầy, khỏi
phải giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ
phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ. Mặc dù người nói lời chân
thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói ấy là thầy tổ, cha, mẹ, là quyến thuộc
hoặc vợ chồng - họ cũng đều không bao giờ nghe theo.
Họ không chịu nhận sự thật, không chịu
phục thiện.
5-
Vinayaṃ so na jānāti: Kẻ
ác không chịu hành động theo luật lệ, luật pháp.
Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo
luật lệ của quốc độ hoặc của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản
tánh ác của chúng mà thôi.
Luật lệ của làng xã hoặc luật pháp của
một quốc gia thường bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người - vì luật lệ, luật
pháp ấy bảo vệ quyền lợi cá nhân, không cho người nầy làm hại kẻ khác.
Kẻ ác thì không chịu câu thúc theo luật
lệ, luật pháp ấy, lại cứ muốn phóng túng vượt thoát ra ngoài để thỏa mãn ác tâm
của mình và gây tổn hại cho người khác.
Năm điều vừa kể ở trên, kẻ ác được mô tả
theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì đức Phật phân tích kẻ ác theo
tuệ giác của ngài.
Trong Tam tạng, đức Thế Tôn có dạy điều
ấy trong đoạn kinh
Uparipaññāsaka - bài kinh Bālapaṇḍitasutta
rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu! Người ác có ba thái độ thấy rõ là:
1. Duccintācinti : Suy
nghĩ ác
2. Dubbhāsitabhāsī : Nói
lời ác
3. Dukkataṃ kārī: Làm
điều ác.
Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy,
thái độ của người ác là suy nghĩ ác, nói ác, mà làm cũng ác; nghĩa là thân, khẩu,
ý đều ác.
Thế nào gọi là suy nghĩ ác? Nói ác? Làm
ác?
Lời chú giải trong kinh có dạy rằng:
* Suy nghĩ ác: Có
ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác, oán thù và tà kiến; là không tin
nghiệp báo, nhân quả và luân hồi.
* Nói ác là: Nói
dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích.
* Làm ác: Sát
sanh, trộm cắp, tà dâm. Ba hành động ấy có khi ở ẩn trong tâm chúng sanh, có
khi phát hiện ra ngoài mặt; nên trong bộ chú giải 38 điều hạnh phúc, ba thái độ
ấy chia ra làm hai hạng là:
a. Ác bên ngoài: Trong
thế gian, ác bên ngoài này có thể phân làm hai loại là:
- Aṅdhabāla [ii]: Ác
ôn, nghĩa là hạng người nầy rất hung dữ, khiến người ta sợ như là bệnh ôn dịch,
họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là
hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, chúng không tránh
một điều nào, không trừ một tội lỗi nào mà không làm!
- Kalyāṇabāla [iii]: Kẻ
ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đỡ
người nghèo khó, bệnh tật... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ
lại ăn năn, mặc dầu không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người nầy có ngày lo tu hành,
không hoàn toàn theo thập ác.
b. Ác bên trong: Ý
nói ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh
chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 26 điều ác của tâm, đấy là 14 bất thiện
tâm sở(akusalacetasikā) và
12 bất thiện tâm (akusalacitta)[iv].
Những ác tính kể trên có tính cách xấu
xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định
được lẽ phải quấy, nên tâm hằng phóng túng hoặc dã dượi buồn ngủ. Mặc dầu tâm ấy
không thật là ác nhưng cũng không phải thiện, không tham thiền, bố thí được [v].
+ Ba trường hợp ác trên đây sẽ đem lại cho chúng
sanh 08 điều tai hại trong kiếp nầy và vị lai:
1. Làm mất lợi ích kiếp nầy và vị lai của
mình cũng như với người thân thuộc.
2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.
3. Làm cho tên tuổi xấu xa hay càng
ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.
4. Bậc trí thức và tất cả ai cũng ghê tởm
như một món đồ bẩn thỉu.
5. Ai cũng cố xa lánh không dám gần hoặc
kinh sợ, như sợ một tai họa; nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một
quả bom nổ chậm.
6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để
phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.
7. Kẻ ác làm cho thanh danh trong họ
hàng bị lu mờ hay bị người đời xóa bỏ đi.
8. Kẻ ác sau khi chết sanh vào bốn đường
ác.
+ Vì vậy, muốn được lợi ích, chúng ta phải hành
theo 06 điều sau đây:
1. Không đến gần kẻ ác
2. Không ngồi gần kẻ ác.
3. Không nghe kẻ ác.
4. Không chơi với kẻ ác.
5. Cố càng xa kẻ ác càng hay.
6. Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.
+ Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo
lành là:
1. Người không gần gũi với kẻ ác là người
được hạnh phúc ưu thắng.
2. Người không chơi với kẻ ác là người
đi trên chánh đạo.
3. Người không chơi với kẻ ác là đã
gieo trồng giới, định, tuệ.
4. Người không thân cận với kẻ ác là đã
đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.
5. Người không chơi với kẻ ác là không
cắt đứt những điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai của mình. Nghĩa là: Khi
thân thiện với kẻ ác là tự mình chuốc lấy lầm lỗi, tai họa, đôi khi làm điều tội
lỗi; lại không làm lành, thì quả lành của mình có từ kiếp trước không thể trả
quả được. Ví như đức vua A-xà-thế do thân cận với Đề-bà-đạt-đa để cho ông ta
xui giết cha, hại Phật, phạm ngũ nghịch đại tội nên không thể đắc đạo quả được,
mặc dầu vua có duyên lành từ kiếp trước.
6. Người không chơi với kẻ ác là người ở
trong thiện pháp.
7. Người không chơi với kẻ ác là người
hằng được các bậc thiện trí thức ngợi khen.
8. Người không chơi với kẻ ác hằng được
thạnh lợi
9. Người không chơi với kẻ ác được bậc
đạo đức, trí thức yêu mến.
10. Người không chơi với kẻ ác thì
không đi vào đường tội lỗi.
11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được
sanh về cõi trời
12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh
phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.
Theo đây, tôi xin nhắc lại một vài tích
xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của đức Phật về sự thân cận với
kẻ ác, người thiện sẽ như thế nào.
Chuyện Chim Két
“- Khi xưa trên một ngọn đồi gần rừng
Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ, do bão tố, két bị lạc
mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào
làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.
Hôm kia, đức vua xứ Pañcala tên Pacala
ngự đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ
suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc,
mới gọi bọn cướp và bảo rằng:
- Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp
của!
Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy
trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy
đức vua mới nói:
- Người ơi, từ xa người đến đây chắc là
mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành không có gì đáng
phải sợ hãi cả đâu.
Đức vua lấy làm trong sạch với két và
nghĩ thầm rằng:
- Cùng một loài két với nhau, một con ở
với bọn cướp thì hung ác, đáng sợ; còn con ở với bậc chơn tu thì thật là thiện
lương, dễ mến làm sao!”
Tích nầy cho chúng ta thấy rằng, mặc dầu
là loài điểu thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của con người nuôi.
Thế thì con người làm sao thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác và điều thiện khi sống
chung lẫn giữa thế gian.
Chuyện Cây Xoài
“- Ngày xưa, đức vua Dadhivāhana ngự đi
tắm dưới sông, sau khi bảo quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa
tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh, mắc vào lưới,
quân hầu vớt được mới đem dâng cho vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ
rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái
có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn ăn thử và cảm nhận trái xoài ấy có vị ngon
ngọt, thơm lựng hiếm có! Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển
và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau cây
xoài sanh được trái, mùi vị thơm tho. Đức vua đem biếu tặng lân bang để khoe
trái quý của xứ mình; nhưng trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm
thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng
nhưng không nẩy mầm, cây không mọc được.
Lần sau, khi được biếu xoài, vị vua kia
liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột
đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhivāhana, liền nghĩ ra kế
độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của đức vua
Dadhivāhana.
Người làm vườn ấy đến tâu cùng vua
Dadhivāhana rằng:
- Tâu Hoàng thượng, hạ thần là
người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch
cho nhiều nhà vua rồi, ai cũng hài lòng. Hôm nay, hạ thần đến đây xin được phục
dịch bệ hạ.
Đức vua lấy làm vừa ý, bèn thâu nhận.
Khi được vào làm, người ấy mới đem dây
thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Lúc thấy cây thần
thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài -
người làm vườn tự biết là mình đã thi hành xong phận sự phá hoại, nên lanh lẹ
trốn đi.
Ngày nọ, vua Dadhivāhana ngự vào vườn
thượng uyển, truyền quân hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Lạ lùng làm sao, màu sắc
xoài không còn vàng óng, tươi mọng; và vị xoài lại trở nên đắng chát, chẳng còn
thơm ngọt như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng:
- Nầy hiền khanh, tại sao mùa nầy xoài
trở nên đắng hôi, mầu không đẹp như trước?
Vị quốc sư - vốn là bậc trí - quan sát
kỹ cây xoài, từ gốc lên ngọn, phát giác sự việc, thấy rõ nguyên do, nói rằng:
- Tâu Đại vương, cây xoài nầy trước kia
được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu
đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành đã làm cho cây mất mùi vị của xoài.
Xong, vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:
“- Vaṇṇagandharasupeto
Amdayaṃ ahuva puri
Tameve pujaṃ labhamāno
Kehamb kutukapphalo
Pucinanda parivāro
Ambote dadivāhanaṃ
Mulaṃ mulenasanlatthaṃ
Sākhāsākhaṃ nisevare
Asatasannivāsene
Tenambo katukapphalo”(?)[vi]
Nghĩa là: Cây xoài nầy trước đây có
màu, mùi, vị - đẹp, thơm, ngon - nhờ được chăm sóc chu đáo. Nhưng tình trạng hiện
giờ như thế nào? Tâu Hoàng thượng! Cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và cây thần
thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung
chạ với dây thần thông và sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà
trở nên đắng chát khó chịu như thế”.
Tích nầy chỉ cho ta thấy rằng: Sự thân
cận chung lộn có ảnh hưởng như thế.
Nếu ở với người lành thì được an vui, ở
với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam:“Gần mực thì đen, gần
đèn thì sáng”. Hoặc: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!”
Cây xoài là vật vô tri, vô giác mà còn
bị ảnh hưởng như thế. Vậy chúng ta nên lấy đó làm gương, phải biết thương mình,
nên xa lánh kẻ ác, dầu người ấy là thân bằng, quyến thuộc chăng nữa. Chúng ta
thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác để lao
vào con đường rượu trà, cờ bạc, đàng điếm - đã hư thân, mất nết mà còn tạo tác
thêm ác nghiệp. Đừng dại khờ bị kẻ khác xúi giục! Đừng nghĩ, nếu không theo họ
thì sợ họ buồn! Cũng đừng ngại người ta cười chê là mình không biết xã giao,
không biết vui chơi với bằng hữu! Nguy hiểm lắm đó! Lửa địa ngục đấy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét