KỆ NGÔN II
HẠNH PHÚC IV
Patirūpadesa vāso: Ở trong xứ nên ở
(Ở trú xứ thích hợp)
Đức Phật đã dạy 38
pháp hạnh phúc chia ra từng giai đoạn rải rác trong nhiều câu kệ và đôi khi
trong mỗi câu kệ có 3 hay 4 pháp hạnh phúc. Chúng ta chỉ xem qua vội vàng không
quan tâm đến dụng ý của đức Phật, nên ta không nhận thấy cái thâm thúy trong sự
sắp đặt mỗi giai đoạn của từng câu kệ. Đó không phải là sự ngẫu nhiên mà là sự
dụng tâm cấu tứ trong phương pháp giảng huấn, căn cứ vào kinh nghiệm của ngài
và tâm lý của chúng sanh. Cho nên khi hành theo 38 pháp hạnh phúc thì ta phải
đi đúng theo từng giai đoạn, như câu kệ ngôn I dạy:
1. Xa kẻ ác.
2. Thân cận với bậc trí thức.
3. Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường.
(Không gần gũi kẻ ác,
Thân cận bậc trí hiền,
Đảnh lễ người đáng lễ,
Thì ta phải hành theo những điều tuần tự như
thế mới hoàn toàn đem sự an vui đến cho ta.
Câu kệ ngôn II cũng có 3 điều hạnh phúc. Có
điều ta cần chú ý là nội dung kệ ngôn I và nội dung kệ ngôn II nhằm hai đối tượng
khác nhau. Câu kệ ngôn I dạy tổng quát về phần vật chất hay bên ngoài; còn câu
kệ ngôn II dạy về phần tâm hay bên trong. Câu kệ ngôn thứ I ví như người nông phu
biết quan sát coi đất nầy có thuận lợi không? Có nước không? Coi mùa này phải
trồng cây thứ giống nào? Rồi mới gieo trồng. Chúng ta có thể đem so sánh ba điều
hạnh phúc trong câu kệ ngôn thứ I với ba điều của nhà nông nhận định về việc
gieo trồng đó.
+ Trong kệ ngôn II Phật dạy thêm 3 hạnh phúc số 4 -5 -6 chúng ta cũng
phải tuần tự thực hành ba pháp nầy, không thể bỏ một pháp nào. Ba pháp hạnh
phúc 4-5-6 ấy là:
5. Người đã làm những việc lành để dành khi
trước.
6.
Giữ mình theo lẽ chánh.
(
Ở trú xứ thích hợp,
Công
đức trước đã làm,
Chơn
chánh hướng tự tâm,
+ Theo chú giải về 38
điều hạnh phúc - thì ở trong xứ nên ở là ở trong xứ nào có đủ ba điều kiện:
a)
Có các hàng trí thức là tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, thiện nam và tín nữ.
b)
Có “puññakiriyāvatthu”[iii], nghĩa
là có nơi thuận tiện cho mình làm được 10 điều phước thiện như bố thí, trì giới...
c)
Có lời giảng giải của chư Phật, nghĩa là có Pháp bảo, nếu trong thời kỳ không
có Phật pháp - thì ít ra cũng phải có lời giảng giải của các bậc trí thức.
Suy
nghĩ rộng, thì câu hạnh phúc nầy có ý dạy rằng: Xứ nào mà có bậc trí thức dạy
chúng ta tìm được hạnh phúc trong kiếp nầy và vị lai, hoặc giả khi ta ở xứ ấy,
ta có thể gặp được sáu điều cao thượng sau đây:
1-.Dassanānuttariya: Thấy
cao thượng, thấy
đây không phải là thấy những vật lạ như bạch tượng, hoặc vật trân quý như hột
xoàn ... mà, thấy cao thượng ở đây chính là thấy rõ pháp vô thường,
khổ não, vô ngã, rồi ráng lo tu hành để mau giải thoát.
Đến
đây tôi xin nhắc lại một tích khi đức Phật còn tại thế để suy gẫm về sự thấy cao thượngvà sự thực hành
chánh pháp - như trong kinh Pháp cú:
“-
Khi đức Phật còn tại thế, có một thầy bà-la-môn tên là Vakali - thấy đức Thế
Tôn có thân hình rất đẹp, ông cứ lẻo đẽo theo bên để ngắm nhìn ngài cho thỏa
lòng ưa thích. Nhưng rồi cũng không được thỏa mãn, vì vậy nên ông đã xin xuất
gia để có nhiều thì giờ và nhiều cơ hội ngắm nhìn hơn. Một ngày nọ, đức
Thế Tôn mới dạy rằng:
-
Nầy Vakali! Ngươi xuất gia để giải thoát, chứ không phải để đi theo ngắm nhìn sắc
thân của Như Lai. Người gần Như lai để ngắm nhìn sắc thân nầy không phải là cao
quý đâu. Phải thực hành theo pháp mà Như Lai đã dạy bảo mới là cao quý.
Mặc
dầu đức Thế Tôn dạy thế, thầy không lấy đó để sửa mình, lại còn giận Phật, nên
leo lên núi cao để tự tử - vì thầy nghĩ rằng: Mình bỏ cả gia đình xin xuất gia,
những mong chiêm ngưỡng kim thân của ngài, mà ngài lại còn rầy la mình, tủi
thân ta quá! Thôi, sống làm gì nữa, chết quách cho xong!
Khi
ông vừa gieo mình tự vẫn, thì đức Thế Tôn hiện ra, dùng thần thông làm cho ông
ta không bị rơi xuống; rồi bảo rằng:
-
Như Lai nói vậy mà ông lại giận Như Lai chăng?
Thầy
Vakali nghe vậy lấy làm cảm động, trong lòng hỉ lạc phát sanh.
Đức
Phật lại dạy minh sát tuệ cho ông rồi đọc kệ ngôn với ý rằng:
-
Người nắm lấy chéo y của Như Lai mà không hành theo chánh pháp, là ở xa Như Lai
muôn dặm. Người dẫu ở xa Như Lai nhưng hành theo pháp của Như Lai là người ở
sát bên Như Lai vậy.
Thầy
tỳ-khưu Vakali sau đó đắc đạo quả A-la-hán”.
Tích
nầy cho thấy rõ ràng dầu người ở gần Phật cả đời, mà không hành đạo cũng vô ích.
Cần nhất phải hành theo chánh pháp, mới gọi là thấy cao thượng.
2-
Sotānuttariya: Nghe
cao thượng, không
phải là nghe lời ca, tiếng hát, đờn kèn thánh thót mê ly - vì sự nghe ấy không
đưa ta đến nơi giải thoát mà trái lại càng làm cho ta chìm đắm, mê man trong âm
hưởng mộng mị ấy. Nghe cao thượng là nghe Pháp bảo, mới là tiếng lời
chân chính, đúng đắn đưa người thoát khỏi luân hồi. Nếu không được là vậy, thì
ít nhất, tiếng lời của Pháp bảo cũng làm cho ta kinh sợ tội lỗi, nhứt thời
không dám làm điều ác, không dám phạm đến nghiệp dữ.
Tôi
xin nhắc sơ lược chuyện của cha con ông tiều phu đang đốn củi, nghe câu hát của
cô gái hái hoa sen mà tỉnh ngộ, đắc quả Phật Độc Giác - để hiểu đâu là tiếng lời
ẩn chứa sự vi diệu của Pháp bảo:
“-
Có một cô gái đang lội bùn để hái sen, vừa hái, cô ta vừa hát rằng:
-
Hoa sen sớm nở chiều tàn.
Sắc
hương phai nhạt, nhụy vàng rụng rơi!
Gẫm
hoa nào khác kiếp người.
Mong
manh thân phận, rã rời diệt sinh!
Hai
cha con ông tiều phu đang đốn củi gần đấy, nghe được câu hát, xúc động sâu xa -
cảm nhận thấm thía và sâu sắc rằng: Cái thân mình đây cũng không bền vững, sống
rồi chết, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, luân hồi mãi mãi trong cõi đời đầy đau
khổ nầy. Vì suy
nghĩ như vậy, chiêm nghiệm như vậy, quán tưởng như vậy - nên giây khắc ấy, cả
hai cha con đoạn tuyệt tất thảy mọi phiền não, đắc quả Phật Độc Giác”.
Tích
nầy cho ta thấy rõ rằng, nếu nghe được chân lý hoặc ý nghĩa nào đó liên hệ đến
sự thật - rồi chiêm nghiệm, quán xét bằng trí tuệ là có thể chấm dứt phiền não,
giải thoát được.
Nghe
như hai cha con vị tiều phu mới được gọi là nghe
cao thượng. Ta ở xứ nào mà nghe được những lời
lành, những lời làm cho tâm ta kinh sợ tội lỗi, lánh xa điều ác, nhất tâm hướng
thiện - thì nơi ấy là xứ ta nên ở.
3-
Labhānuttariya: Được
cao thượng. Được
tiền của, châu ngọc, người đời cho là quý báu, nhưng đối với Phật giáo thì đó
không phải là cao thượng; vì những vật ấy sẽ đem lại sự cực lòng, phải lo chăm
sóc, cất giữ, lo sợ mất mác hoặc sợ bị cướp bóc... Nếu không lo sợ những điều ấy,
thì ta vẫn còn một điều lo sợ nhất, là ta mến tiếc nó, lưu luyến nó - khiến cho
tâm ta bao giờ cũng phiền não, bất an, dính mắc. Vì vậy nên tiền của, châu ngọc
không phải là cái đem đến an lành, hạnh phúc thật sự. An lành, hạnh phúc chơn
chính là không còn lo sợ, bất an, hay thao thức, trằn trọc nữa...
Được cao thượng là
có được đức tin. Người đời ít ai có được đức tin chân
chánh (Tin Tam Bảo, tội phước,
nhân quả, nghiệp báo) nên
không biết làm việc thiện, không biết bố thí giúp đỡ kẻ nghèo; mà trái lại, chỉ
muốn thâu góp, tích trử, vơ vét thêm cho nhiều, cho đầy kho, đầy lẫm, đầy hòm,
đầy rương! Nhưng đáng thương thay, những người ấy khi chết không đem theo cho
mình được gì cả! Những người ấy khó
thấy được thiện pháp, khó đắc được đạo quả; cứ sống mãi trong chốn mê lầm tăm tối,
luân hồi tử sinh thống khổ mãi. Người có được
đức tin,mới gọi là được cao thượng. Đức tin là chiếc thuyền đưa một người
từ bờ mê đến bờ giác, đức tin là căn bản của người tu, nhờ có đức tin con người
mới hành đạo được.
Vì vậy đức Phật dạy chúng ta, xứ nên ở là
xứ nào có thể làm cho ta có được đức tin.
4-
Sikkhānuttariya: Học cao thượng, tức
là học các pháp hành, như học cách thức trì giới, tham thiền, niệm Phật, niệm
Pháp, hoặc học tu chỉ tịnh, quán minh... Nói tóm lại, học cao thượng là học những
phương pháp để đánh đuổi phiền não ra khỏi tâm. Còn tất thảy mọi pháp học của
thế gian chỉ để tích lũy bản ngã, tham vọng, danh lợi... nên không được gọi là
học cao thượng vậy.
5-
Paricaraṇānuttariya: Sự
hầu hạ cao thượng, nghĩa
là nên thân cận Tam Bảo nhứt là Tăng bảo để nghe các ngài dạy điều hay lẽ thiệt,
đâu phải, đâu không phải, phân biệt đâu tà, đâu chánh, đâu khổ, đâu vui để tu tập
mang đến hạnh phúc cho mình và cho người khác. Ta cũng nên tìm cách gần gũi, hầu
hạ các bậc có gới đức, định đức, tuệ đức, các bậc thiện trí thức để có thêm phước
báu và hoạch đắc nhiều lợi lạc tinh thần.
6-
Anussatānuttariya: Niệm
(tùy niệm) cao thượng -
Tức là niệm cái gì, niệm pháp nào để cho tâm ta khắng khít với pháp lành làm
cho phiền não không len thấm vào được. Ngoài ra, lúc tâm ta niệm niệm liên tục
- sẽ có hai lợi ích. Một là, tâm ta sẽ lắng dịu sự ham muốn ngũ trần, các tội lỗi
và ác nghiệp không thể nẩy sanh được. Hai là có thể đạt đến cận hành định - những
cáu bợn phiền não, kiết sử không có cơ hội đâm chồi, mọc rễ được - đồng thời,
ta sẽ đạt được hạnh phúc lạc định rất là thù thắng vậy. Nếu không được như thế
thì ta cũng có được phước báu sanh về các cõi trời, người với hạnh phúc sang cả.
*
Buddhānussati: Niệm
ân đức Phật (Niệm Phật). Có thể lựa chọn 01 trong 09 hồng danh
của đức Phật để niệm, ví dụ: Buddho, Arahaṃ... Cũng có thể niệm tưởng những ân
đức của đức Phật như giải thoát đức, tuệ đức, định đức, giới đức, từ đức, bi đức...
của ngài.
*
Dhammānussati: Niệm
ân đức Pháp (Niệm Pháp). Pháp có 5 đặc tính, cần phải niệm tưởng,
ví dụ như: Thiết thực hiện tại, đến để mà thấy...[v]
*
Saṅghānussati: Niệm
ân đức Tăng (Niệm Tăng). Tăng có 4 đức tính cần phải niệm tưởng,
ví dụ như: Thiện hạnh, chánh hạnh, trực hạnh, phạm hạnh...
*
Silānussati: Niệm
tưởng giới luật (Niệm giới). Niệm tưởng giới của mình thọ trì, coi
có trong sạch hay không và nếu không trong sạch, cố làm cho trong sạch; bằng đã
trong sạch, càng làm cho trong sạch thêm lên, không xao lãng, không để cho nó bị
lủng, bị rỗ, bị đứt, bị vá...
*
Cāgānussati: Niệm
tưởng bố thí (Niệm thí). Luôn luôn quan sát coi trong ngày
chúng ta có làm được việc lành nào chưa, nhứt là sự bố thí; vì bố thí là hạnh dễ
làm nhất của người tại gia cư sĩ. Ngoài ra, ta còn cần phải niệm tưởng rằng, bố
thí là phước điền, bố thí năng sanh thiện pháp, bố thí nhằm để đối trị bỏn xẻn,
xan tham; bố thí nhằm để xả ly, dứt bỏ, bố thí làm cho tâm ta càng ngày càng vắng
lặng, trong sạch...
*
Devatānusati: Niệm
tưởng chư thiên (Niệm thiên);
vì chư thiên có năm thiện pháp, mà chúng ta nên thực hành theo là:
-
Saddhā
: Đức tin
-
Sīla
: Giới đức
-
Suta
: Đa văn (nghe pháp, đọc
kinh sách)
-
Cāga
: Bố thí (dứt bỏ)
-
Paññā
: Trí tuệ
Đó
là năm pháp (Tín, giới, văn,
thí, tuệ) làm cho các vị được
sanh làm chư thiên. Khi ta hành động theo các vị thì ta được sanh về cõi trời,
bằng ta thực hành cao thượng hơn năm pháp ấy, hành trì thâm sâu và miên mật hơn
- nhất là chỉ tịnh và quán minh thì chúng ta có thể đắc các tầng thiền hoặc tứ đạo,
tứ quả và Niết-bàn.
Tóm
lại, xứ nên ở là xứ có Phật
pháp, nếu không có Phật pháp, ít nhất cũng phải có các bậc thiện trí thức
chỉ dạy con đường lành cho mọi người, có điều kiện thuận tiện cho ta thực hành
được bảy điều hạnh phúc căn bản:
1.
Có dịp để mình làm việc lành.
2.
Được học ba pháp (Pháp học,
pháp hành và pháp thành)
3.
Được sáu điều cao thượng (Như
đã nói ở trên)
4.
Được trở nên người không dễ duôi, không giải đãi, buông lung, phóng dật...
5.
Được chỗ nương nhờ cao quý cho bản thân mình.
6. Được hưởng “Thất
bảo”[vi] của nhà Phật.
[iv] Thật ra
, nếu nói đầy đủ thì phải là thập tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng,
niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm sự chết, niệm tịch tịnh (Niết-bàn), niệm
thân, niệm hơi thở.( 8 đề mục đầu chỉ đưa đến cận định, 2 đề mục sau thì có
khác - như niệm thân có thể đắc đến tứ thiền; niệm hơi thở thì đến tứ thiền,
đạo quả và Niết-bàn). Tuy nhiên, trong một buổi giảng nói, có lẽ pháp sư không
đi sâu vào chi tiết, chỉ nói những cái khái quát.
[v] Cho đầy
đủ là: Sandiṭṭhiko: Thiết thực hiện tại; Akāliko: Vượt thời gian; Ehipassiko:
Đến để mà thấy; Opanāyiko: Có khả năng hướng thượng (chú tâm, chánh niệm);
Paccattaṃ veditabbo viññūhi: Bậc trí tự mình giác hiểu.
[vi] Chưa rõ “thất bảo”hàm chỉ vật trân quý gì. Có thể là 7
thánh sản : Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, tuệ? Hay là thất giác chi: Niệm, trạch
pháp, tấn, hỷ, an, định, xả? Theo tôi, có lẽ là 7 thánh sản.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét