Thứ Hai, 29 tháng 8, 2016

38 pháp Hạnh phúc-5-Ở NƠI NÊN Ở

KỆ NGÔN II
HẠNH PHÚC IV

Patirūpadesa vāso: Ở trong xứ nên ở 
(Ở trú xứ thích hợp)


 Đức Phật đã dạy 38 pháp hạnh phúc chia ra từng giai đoạn rải rác trong nhiều câu kệ và đôi khi trong mỗi câu kệ có 3 hay 4 pháp hạnh phúc. Chúng ta chỉ xem qua vội vàng không quan tâm đến dụng ý của đức Phật, nên ta không nhận thấy cái thâm thúy trong sự sắp đặt mỗi giai đoạn của từng câu kệ. Đó không phải là sự ngẫu nhiên mà là sự dụng tâm cấu tứ trong phương pháp giảng huấn, căn cứ vào kinh nghiệm của ngài và tâm lý của chúng sanh. Cho nên khi hành theo 38 pháp hạnh phúc thì ta phải đi đúng theo từng giai đoạn, như câu kệ ngôn I dạy:
1. Xa kẻ ác.
2. Thân cận với bậc trí thức.
3. Cúng dường đến các bậc đáng cúng dường.
(Không gần gũi kẻ ác,
Thân cận bậc trí hiền,
Đảnh lễ người đáng lễ,
Là phúc lành cao thượng)[i]
Thì ta phải hành theo những điều tuần tự như thế mới hoàn toàn đem sự an vui đến cho ta.
Câu kệ ngôn II cũng có 3 điều hạnh phúc. Có điều ta cần chú ý là nội dung kệ ngôn I và nội dung kệ ngôn II nhằm hai đối tượng khác nhau. Câu kệ ngôn I dạy tổng quát về phần vật chất hay bên ngoài; còn câu kệ ngôn II dạy về phần tâm hay bên trong. Câu kệ ngôn thứ I ví như người nông phu biết quan sát coi đất nầy có thuận lợi không? Có nước không? Coi mùa này phải trồng cây thứ giống nào? Rồi mới gieo trồng. Chúng ta có thể đem so sánh ba điều hạnh phúc trong câu kệ ngôn thứ I với ba điều của nhà nông nhận định về việc gieo trồng đó.

+ Trong kệ ngôn II Phật dạy thêm 3 hạnh phúc số 4 -5 -6 chúng ta cũng phải tuần tự thực hành ba pháp nầy, không thể bỏ một pháp nào. Ba pháp hạnh phúc 4-5-6 ấy là:

4.  trong xứ nên ở.
5. Người đã làm những việc lành để dành khi trước.
6. Giữ mình theo lẽ chánh.
( Ở trú xứ thích hợp,
Công đức trước đã làm,
Chơn chánh hướng tự tâm,
Là phúc lành cao thượng)[ii]

+ Theo chú giải về 38 điều hạnh phúc - thì ở trong xứ nên ở là ở trong xứ nào có đủ ba điều kiện:

a) Có các hàng trí thức là tỳ-khưu, tỳ-khưu-ni, thiện nam và tín nữ.
b) Có “puññakiriyāvatthu”[iii], nghĩa là có nơi thuận tiện cho mình làm được 10 điều phước thiện như bố thí, trì giới...
c) Có lời giảng giải của chư Phật, nghĩa là có Pháp bảo, nếu trong thời kỳ không có Phật pháp - thì ít ra cũng phải có lời giảng giải của các bậc trí thức.
Suy nghĩ rộng, thì câu hạnh phúc nầy có ý dạy rằng: Xứ nào mà có bậc trí thức dạy chúng ta tìm được hạnh phúc trong kiếp nầy và vị lai, hoặc giả khi ta ở xứ ấy, ta có thể gặp được sáu điều cao thượng sau đây:
1-.Dassanānuttariya: Thấy cao thượng, thấy đây không phải là thấy những vật lạ như bạch tượng, hoặc vật trân quý như hột xoàn ... mà, thấy cao thượng ở đây chính là thấy rõ pháp vô thường, khổ não, vô ngã, rồi ráng lo tu hành để mau giải thoát.
Đến đây tôi xin nhắc lại một tích khi đức Phật còn tại thế để suy gẫm về sự thấy cao thượngvà sự thực hành chánh pháp - như trong kinh Pháp cú:
“- Khi đức Phật còn tại thế, có một thầy bà-la-môn tên là Vakali - thấy đức Thế Tôn có thân hình rất đẹp, ông cứ lẻo đẽo theo bên để ngắm nhìn ngài cho thỏa lòng ưa thích. Nhưng rồi cũng không được thỏa mãn, vì vậy nên ông đã xin xuất gia để có nhiều thì giờ và nhiều cơ hội ngắm nhìn hơn.  Một ngày nọ, đức Thế Tôn mới dạy rằng:
- Nầy Vakali! Ngươi xuất gia để giải thoát, chứ không phải để đi theo ngắm nhìn sắc thân của Như Lai. Người gần Như lai để ngắm nhìn sắc thân nầy không phải là cao quý đâu. Phải thực hành theo pháp mà Như Lai đã dạy bảo mới là cao quý.
Mặc dầu đức Thế Tôn dạy thế, thầy không lấy đó để sửa mình, lại còn giận Phật, nên leo lên núi cao để tự tử - vì thầy nghĩ rằng: Mình bỏ cả gia đình xin xuất gia, những mong chiêm ngưỡng kim thân của ngài, mà ngài lại còn rầy la mình, tủi thân ta quá! Thôi, sống làm gì nữa, chết quách cho xong!
Khi ông vừa gieo mình tự vẫn, thì đức Thế Tôn hiện ra, dùng thần thông làm cho ông ta không bị rơi xuống; rồi bảo rằng:
- Như Lai nói vậy mà ông lại giận Như Lai chăng?
Thầy Vakali nghe vậy lấy làm cảm động, trong lòng hỉ lạc phát sanh.
Đức Phật lại dạy minh sát tuệ cho ông rồi đọc kệ ngôn với ý rằng:
- Người nắm lấy chéo y của Như Lai mà không hành theo chánh pháp, là ở xa Như Lai muôn dặm. Người dẫu ở xa Như Lai nhưng hành theo pháp của Như Lai là người ở sát bên Như Lai vậy.
Thầy tỳ-khưu Vakali sau đó đắc đạo quả A-la-hán”.
Tích nầy cho thấy rõ ràng dầu người ở gần Phật cả đời, mà không hành đạo cũng vô ích. Cần nhất phải hành theo chánh pháp, mới gọi là thấy cao thượng.
2- Sotānuttariya: Nghe cao thượng, không phải là nghe lời ca, tiếng hát, đờn kèn thánh thót mê ly - vì sự nghe ấy không đưa ta đến nơi giải thoát mà trái lại càng làm cho ta chìm đắm, mê man trong âm hưởng mộng mị ấy. Nghe cao thượng là nghe Pháp bảo, mới là tiếng lời chân chính, đúng đắn đưa người thoát khỏi luân hồi. Nếu không được là vậy, thì ít nhất, tiếng lời của Pháp bảo cũng làm cho ta kinh sợ tội lỗi, nhứt thời không dám làm điều ác, không dám phạm đến nghiệp dữ.
Tôi xin nhắc sơ lược chuyện của cha con ông tiều phu đang đốn củi, nghe câu hát của cô gái hái hoa sen mà tỉnh ngộ, đắc quả Phật Độc Giác - để hiểu đâu là tiếng lời ẩn chứa sự vi diệu của Pháp bảo:
“- Có một cô gái đang lội bùn để hái sen, vừa hái, cô ta vừa hát rằng:
- Hoa sen sớm nở chiều tàn.
Sắc hương phai nhạt, nhụy vàng rụng rơi!
Gẫm hoa nào khác kiếp người.
Mong manh thân phận, rã rời diệt sinh!
Hai cha con ông tiều phu đang đốn củi gần đấy, nghe được câu hát, xúc động sâu xa - cảm nhận thấm thía và sâu sắc rằng: Cái thân mình đây cũng không bền vững, sống rồi chết, sanh rồi diệt, diệt rồi sanh, luân hồi mãi mãi trong cõi đời đầy đau khổ nầy.  suy nghĩ như vậy, chiêm nghiệm như vậy, quán tưởng như vậy - nên giây khắc ấy, cả hai cha con đoạn tuyệt tất thảy mọi phiền não, đắc quả Phật Độc Giác”.
Tích nầy cho ta thấy rõ rằng, nếu nghe được chân lý hoặc ý nghĩa nào đó liên hệ đến sự thật - rồi chiêm nghiệm, quán xét bằng trí tuệ là có thể chấm dứt phiền não, giải thoát được.
Nghe như hai cha con vị tiều phu mới được gọi là nghe cao thượng. Ta ở xứ nào mà nghe được những lời lành, những lời làm cho tâm ta kinh sợ tội lỗi, lánh xa điều ác, nhất tâm hướng thiện - thì nơi ấy là xứ ta nên ở.
3- Labhānuttariya: Được cao thượng. Được tiền của, châu ngọc, người đời cho là quý báu, nhưng đối với Phật giáo thì đó không phải là cao thượng; vì những vật ấy sẽ đem lại sự cực lòng, phải lo chăm sóc, cất giữ, lo sợ mất mác hoặc sợ bị cướp bóc... Nếu không lo sợ những điều ấy, thì ta vẫn còn một điều lo sợ nhất, là ta mến tiếc nó, lưu luyến nó - khiến cho tâm ta bao giờ cũng phiền não, bất an, dính mắc. Vì vậy nên tiền của, châu ngọc không phải là cái đem đến an lành, hạnh phúc thật sự. An lành, hạnh phúc chơn chính là không còn lo sợ, bất an, hay thao thức, trằn trọc nữa...
Được cao thượng là có được đức tin. Người đời ít ai có được đức tin chân chánh (Tin Tam Bảo, tội phước, nhân quả, nghiệp báo) nên không biết làm việc thiện, không biết bố thí giúp đỡ kẻ nghèo; mà trái lại, chỉ muốn thâu góp, tích trử, vơ vét thêm cho nhiều, cho đầy kho, đầy lẫm, đầy hòm, đầy rương! Nhưng đáng thương thay, những người ấy khi chết không đem theo cho mình được gì cả! Những người ấy khó thấy được thiện pháp, khó đắc được đạo quả; cứ sống mãi trong chốn mê lầm tăm tối, luân hồi tử sinh thống khổ mãi. Người có được đức tin,mới gọi là được cao thượng. Đức tin là chiếc thuyền đưa một người từ bờ mê đến bờ giác, đức tin là căn bản của người tu, nhờ có đức tin con người mới hành đạo được.
 vậy đức Phật dạy chúng ta, xứ nên ở là xứ nào có thể làm cho ta có được đức tin.
4- Sikkhānuttariya: Học cao thượng, tức là học các pháp hành, như học cách thức trì giới, tham thiền, niệm Phật, niệm Pháp, hoặc học tu chỉ tịnh, quán minh... Nói tóm lại, học cao thượng là học những phương pháp để đánh đuổi phiền não ra khỏi tâm. Còn tất thảy mọi pháp học của thế gian chỉ để tích lũy bản ngã, tham vọng, danh lợi... nên không được gọi là học cao thượng vậy.
5- Paricaraṇānuttariya: Sự hầu hạ cao thượng, nghĩa là nên thân cận Tam Bảo nhứt là Tăng bảo để nghe các ngài dạy điều hay lẽ thiệt, đâu phải, đâu không phải, phân biệt đâu tà, đâu chánh, đâu khổ, đâu vui để tu tập mang đến hạnh phúc cho mình và cho người khác. Ta cũng nên tìm cách gần gũi, hầu hạ các bậc có gới đức, định đức, tuệ đức, các bậc thiện trí thức để có thêm phước báu và hoạch đắc nhiều lợi lạc tinh thần.
6- Anussatānuttariya: Niệm (tùy niệm) cao thượng - Tức là niệm cái gì, niệm pháp nào để cho tâm ta khắng khít với pháp lành làm cho phiền não không len thấm vào được. Ngoài ra, lúc tâm ta niệm niệm liên tục - sẽ có hai lợi ích. Một là, tâm ta sẽ lắng dịu sự ham muốn ngũ trần, các tội lỗi và ác nghiệp không thể nẩy sanh được. Hai là có thể đạt đến cận hành định - những cáu bợn phiền não, kiết sử không có cơ hội đâm chồi, mọc rễ được - đồng thời, ta sẽ đạt được hạnh phúc lạc định rất là thù thắng vậy. Nếu không được như thế thì ta cũng có được phước báu sanh về các cõi trời, người với hạnh phúc sang cả.
Đức Phật có dạy sáu điều niệm, tùy niệm cao thượng [iv]:
* Buddhānussati: Niệm ân đức Phật (Niệm Phật). Có thể lựa chọn 01 trong 09 hồng danh của đức Phật để niệm, ví dụ: Buddho, Arahaṃ... Cũng có thể niệm tưởng những ân đức của đức Phật như giải thoát đức, tuệ đức, định đức, giới đức, từ đức, bi đức... của ngài.
* Dhammānussati: Niệm ân đức Pháp (Niệm Pháp). Pháp có 5 đặc tính, cần phải niệm tưởng, ví dụ như: Thiết thực hiện tại, đến để mà thấy...[v]
* Saṅghānussati: Niệm ân đức Tăng (Niệm Tăng). Tăng có 4 đức tính cần phải niệm tưởng, ví dụ như: Thiện hạnh, chánh hạnh, trực hạnh, phạm hạnh...
* Silānussati: Niệm tưởng giới luật (Niệm giới). Niệm tưởng giới của mình thọ trì, coi có trong sạch hay không và nếu không trong sạch, cố làm cho trong sạch; bằng đã trong sạch, càng làm cho trong sạch thêm lên, không xao lãng, không để cho nó bị lủng, bị rỗ, bị đứt, bị vá...
* Cāgānussati: Niệm tưởng bố thí (Niệm thí). Luôn luôn quan sát coi trong ngày chúng ta có làm được việc lành nào chưa, nhứt là sự bố thí; vì bố thí là hạnh dễ làm nhất của người tại gia cư sĩ. Ngoài ra, ta còn cần phải niệm tưởng rằng, bố thí là phước điền, bố thí năng sanh thiện pháp, bố thí nhằm để đối trị bỏn xẻn, xan tham; bố thí nhằm để xả ly, dứt bỏ, bố thí làm cho tâm ta càng ngày càng vắng lặng, trong sạch...
* Devatānusati: Niệm tưởng chư thiên (Niệm thiên);  vì chư thiên có năm thiện pháp, mà chúng ta nên thực hành theo là:
- Saddhā            :  Đức tin
- Sīla                  :  Giới đức
- Suta                :  Đa văn (nghe pháp, đọc kinh sách)
- Cāga               :  Bố thí (dứt bỏ)
- Paññā             :  Trí tuệ
Đó là năm pháp (Tín, giới, văn, thí, tuệ) làm cho các vị được sanh làm chư thiên. Khi ta hành động theo các vị thì ta được sanh về cõi trời, bằng ta thực hành cao thượng hơn năm pháp ấy, hành trì thâm sâu và miên mật hơn - nhất là chỉ tịnh và quán minh thì chúng ta có thể đắc các tầng thiền hoặc tứ đạo, tứ quả và Niết-bàn.
Tóm lại, xứ nên ở là xứ có Phật pháp, nếu không có Phật pháp, ít nhất cũng phải có các bậc thiện trí thức chỉ dạy con đường lành cho mọi người, có điều kiện thuận tiện cho ta thực hành được bảy điều hạnh phúc căn bản:
1. Có dịp để mình làm việc lành.
2. Được học ba pháp (Pháp học, pháp hành và pháp thành)
3. Được sáu điều cao thượng (Như đã nói ở trên)
4. Được trở nên người không dễ duôi, không giải đãi, buông lung, phóng dật...
5. Được chỗ nương nhờ cao quý cho bản thân mình.
6. Được hưởng “Thất bảo”[vi] của nhà Phật.
[i] Đại sư Viên Minh dịch - in trong Kinh tụng Huyền Không, phát hành nội bộ.
[ii] Ghi chú 14.
[iii] Nơi, chỗ, xứ để làm việc phước thiện.
[iv] Thật ra , nếu nói đầy đủ thì phải là thập tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm thiên, niệm sự chết, niệm tịch tịnh (Niết-bàn), niệm thân, niệm hơi thở.( 8 đề mục đầu chỉ đưa đến cận định, 2 đề mục sau thì có khác - như niệm thân có thể đắc đến tứ thiền; niệm hơi thở thì đến tứ thiền, đạo quả và Niết-bàn). Tuy nhiên, trong một buổi giảng nói, có lẽ pháp sư không đi sâu vào chi tiết, chỉ nói những cái khái quát.
[v] Cho đầy đủ là: Sandiṭṭhiko: Thiết thực hiện tại; Akāliko: Vượt thời gian; Ehipassiko: Đến để mà thấy; Opanāyiko: Có khả năng hướng thượng (chú tâm, chánh niệm); Paccattaṃ  veditabbo viññūhi: Bậc trí tự mình giác hiểu.
[vi] Chưa rõ “thất bảo”hàm chỉ vật trân quý gì. Có thể là 7 thánh sản : Tín, giới, tàm, quý, văn, thí, tuệ? Hay là thất giác chi: Niệm, trạch pháp, tấn, hỷ, an, định, xả? Theo tôi, có lẽ là 7 thánh sản.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét