Lời Nói
Đầu
Từ lâu, tôi có phát
nguyện là phải sửa chữa quyển sách 38 pháp an lành đã ấn tống
năm 1961, vì nhiều nguyên nhân:
1-
Trước kia, đây là những bài thuyết pháp của tôi, có in bằng ronéo, đại đức Hộ
Giác nhận thấy hữu ích cho người tu Phật nên ngài hỏi ý kiến tôi để in ấn.
Trong lúc ấy, tuy gọi là 38 pháp an lành nhưng chỉ có 32 bài
thuyết pháp, nghĩa là chưa đầy đủ; và đại đức Hộ Giác đã vui lòng
soạn giúp những bài còn lại: Từ bài 33 đến bài 38.
Còn nữa, khi có thì
giờ rảnh rỗi ngồi xem lại, thấy những bài mà tôi thuyết không được rõ ràng, đôi
chỗ lại có nhiều thiếu sót - chẳng hạn như không nêu bật quả báu của mỗi pháp
an lành.
2- Có nhiều ông, bà
có nhã ý, là tôi nên viết thành bố cục một quyển sách trình bày tuần tự
những pháp an lành mà đức Phật đã giảng nói nhắm đến phần
đông, có tính đại chúng - hơn là đúc kết những thời pháp bao giờ cũng có tính
cục bộ và rời rạc, chỉ để dành cho một nhóm, đôi khi chỉ để hồi hướng phước báu
công đức cho một hoặc hai người đặc trưng nào đó.
3- Tôi cũng có dự
tính sẽ làm lại toàn bộ rồi ấn tống, làm pháp thí để hồi hướng cho các bậc hữu
ân - đồng thời lại có được một quyển sách tương đối hoàn chỉnh để chư Phật tử
có cơ hội học hỏi, nghiên cứu.
4- Nhân thể,
tôi muốn đổi tên 38 pháp an lành thành 38 pháp hạnh
phúc.
5- 38 pháp
hạnh phúc được ấn tống là do duyên một nhóm Phật tử phát bồ-đề-tâm
muốn cúng dường pháp thí nhân ngày rằm tháng bảy năm 1969, PL. 2513. Họ muốn
một quyển sách dày dặn chừng 300 trang nên tôi phải chọn quyển 38 pháp
hạnh phúc này sau khi đã chỉnh sửa xong.
6- Do công lao học
hỏi, nghiên cứu, sưu tầm, biên soạn - tôi xin được hồi hướng phần phước báu
thanh cao nầy đến các bậc hữu ân của chúng tôi, đến quý ông bà thiện nam tín nữ
có tâm trong sạch phát tâm ấn tống, tất cả chư thiên, phạm thiên, tất cả Phật
tử và chúng sanh đều được đắc kỳ sở nguyện.
7- Cuối cùng là mọi
phước lành, duyên lành xin hồi hướng đến cho giáo sư Thuần Phong, người đã
không nại cực nhọc, hy sinh thì giờ quý báu của mình để sửa chữa chính tả cũng
như văn phạm. Nguyện cầu cho giáo sư được vạn sự như ý.
Mahā
Thông Kham Medhivongs
Viết xong mùa đông năm 1967
PL. 2510 tại Vạn Tượng
Lời thưa,Viết xong mùa đông năm 1967
PL. 2510 tại Vạn Tượng
38 pháp hạnh phúc của pháp sư
Thông Kham là quyển sách gối đầu giường của chư Tăng và Phật tử cách đây đã ba,
bốn mươi năm về trước. Những bản in đầu tiên mà tôi đọc được dưới dạng ronéo,
sau đó là thành sách nhưng giấy xấu, mực in không được tốt. Điều đó vào thời ấy
là bình thường, nhưng câu chữ Pāḷi, do sắp chữ, in ấn thì sai trật quá nhiều,
kể cả lỗi chính tả. Quyển mà tôi đang có trong tay, được in lại và ấn tống vào
năm 2003, có lẽ do chỉnh sửa nhiều lần, tuy khá hơn, nhưng sai trật thì vẫn
thế, nó giảm giá trị hình thức và nội dung không ít vậy.
Nhận thấy đây là một
quyển sách hay rất cần thiết cho Phật tử các giới học hỏi và tu tập - vẫn còn
nguyên tính chuyện đời và giáo pháp muôn thuở - nên Hòa thượng Tịnh Đức, chùa
Đạo Quang, Texas, Hoa Kỳ - phát tâm chỉnh sửa và ấn tống để cúng dường Phật tử
mười phương. Tầm nhìn và tấm lòng của đại sư rất đáng trân trọng nên tôi đã
nguyện phụ giúp một tay.
Sau đây là vài điều
trần tình với bà con, thân nhân, quyến thuộc của pháp sư còn tại tiền và chư
độc giả các giới:
- Đây là quyến sách
được đúc kết lại từ những bài thuyết pháp, đa phần là văn nói - tuy tôi đã cố
gắng chuyển sang văn viết nhưng nhiều nơi vẫn cố giữ nguyên văn nói cho gần gũi
và bình dị giống như “khẩu phong, khẩu khí” của tác giả thuở nào.
- Có những ngôn ngữ
quá bình dân hoặc “rặc” giọng Nam bộ, tôi phải chuyển sang ngôn ngữ phổ thông.
- Từng cụm từ hoặc kệ
Pāḷi, tuy đã hiệu đính nhiều nhưng vẫn không tránh khỏi sai sót do không tìm ra
nguồn - ví dụ kinh nào, pháp cú số mấy? Lại nữa, từng mẫu tự la tinh do ghép,
đánh máy sai trật khó tìm ra nguyện dạng động từ hoặc từ phái sanh tương ứng.
Lại còn có những câu Pāḷi mà nghĩa vốn cô đọng nhưng tác giả lại giải thích
rộng nên đôi chỗ dường như không liên hệ với câu Pāḷi trích dẫn; tôi đã cố gắng
giải thích một vài, chỗ nào chịu thì tôi đành ghi dấu hỏi (?).
- Có khá nhiều chỗ
khi nói chi pháp mà tác giả quên giải thích - ví dụ “ 3 điều lợi ích” mà không
biết là những lợi ích gì - nên tôi phải mày mò tra cứu và ghi chú cẩn trọng là
có phải những lợi ích như thế này, như thế kia hay chăng? Ngoài ra, thấy chỗ nào
cần thiết phải ghi chú chi pháp cho đầy đủ thì tôi đã nhờ một phần vào quyển “
Kho tàng pháp bảo” của sư Giác Giới (Bodhisīla) - phát hành nội bộ, PL. 2545 -
và một vài nơi khác.
- Các câu chuyện kể
trong túc sanh truyện, chỗ nào tìm ra nguồn thì tôi ghi chú khá đầy đủ, chỉnh
sửa tên, địa danh nhân và vật cho đúng Pāḷi - chỗ nào không thể, thì đành bó
tay.
- Đề mục từng phẩm và
từng chương, tác giả cũng thường ghi nghĩa rộng, ví dụ gārava: “Sự cung kính,
tôn trọng, kính trọng” mà tác giả ghi “ Sự tôn kính các bậc đáng tôn kính”.
Trường hợp này, do tôn trọng tác giả nên đa phần tôi giữ nguyên, một đôi chỗ,
tôi có mở ngoặc đơn bên dưới, ghi thêm ngữ nghĩa mà đại sư Viên Minh đã dịch,
theo thiển ý của tôi, thường cô đọng và chuẩn xác hơn. Và còn khá nhiều chi tiết
khác nữa...
Vì nhu cầu học hỏi và
nghiên cứu - vừa làm vừa học - nên lợi ích trước nhất là về phần tôi; sau đó
cũng muốn “phụ họa” với Hòa thượng Tịnh Đức, hiến tặng cho Phật tử các giới một
bổn sách tương đối ít lỗi nhất, còn chuyện “ như ý” thì muôn đời không thể.
Cuối cùng, những vụng
về, thiếu sót khi nhuận sắc và hiệu đính quyển sách này, tôi xin được sám hối
với cố pháp sư và xin nhận chịu hoàn toàn trách nhiệm do học hỏi chưa tới nơi
tới chốn.
Trân trọng.
Hoàn
thành ngày 10/2 năm Canh Dần, 2010
Huyền Không Sơn Thượng, Am Mây Tía
Tỳ-khưu Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Huyền Không Sơn Thượng, Am Mây Tía
Tỳ-khưu Giới Đức (Minh Đức Triều Tâm Ảnh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét