GIẢNG
PHÁP HẠNH PHÚC
Hai mươi sáu thế kỷ
trước đây, nghĩa là khi đức Phật chưa thành đạo, đất nước cổ xưa Ấn Độ đã phát
triển cực thịnh về mặt tôn giáo, tín ngưỡng và tâm linh. Các trường phái triết
học nườm nượp ra đời để giải đáp những câu hỏi liên quan đến con người, số phận
con người và kiếp sống hữu hạn của con người. Đại lược như:
- Người ta từ đâu
sanh đến?
- Tại sao lại chết?
- Chết rồi sanh đi đâu?
- Tại sao người giàu
sang, kẻ nghèo hèn khác nhau?
- Làm sao tìm được
hạnh phúc?
Do giải đáp những câu
hỏi đó mà sinh ra nhiều tôn giáo, tùy theo kiến thức và quan niệm của các vị
giáo chủ - tìm cách giảng giải sao cho thuyết phục tín đồ.
Phong trào ấy phổ
biến rất mau và rất sâu rộng trong miền Trung và Tây Bắc Ấn. Người ta thường tụ
tập dưới cội cây to nơi ngã ba đường, ngã tư đường để bàn cãi và giảng giải
những vấn đề nêu trên.
Trong tất cả các câu
hỏi ấy, câu hỏi cuối cùng là quan trọng nhất. Người ta thắc mắc, ưu tư, trăn
trở rằng là: “Cái gì thật sự đem đến hạnh phúc cho nhân loại?”
Có vị giáo chủ
đáp: “Phàm trong thân thể con người, mắt là quan trọng nhất - vì mắt
đem lại ánh sáng, là nguồn ánh sáng cho con người. Không có mắt, con người sẽ không
nhìn thấy vạn vật xung quanh, sẽ sống trong tối tăm vĩnh viễn. Vậy theo chủ
kiến của tôi: Mắt đem lại hạnh phúc cho con người. Mắt là nguồn hạnh phúc!”
Khi ấy có người hỏi
gặng: “Vậy là ngài xác định, khẳng định rằng, mắt đem đến hạnh phúc
thật sự cho con người có phải chăng?”
Vị giáo chủ tự tin
đáp: “Đúng vậy! Mắt được xem như là chủ nhân của cái thân nầy và cả đời
sống của con người nữa. Tôi còn xác tín rằng, mọi vật mà mắt trông thấy đều đem
đến hạnh phúc cho con người!”
Người kia bèn phản
bác lại: “Lập luận của ngài không đứng vững được rồi. Đâu phải cái gì,
sự vật gì, hiện tượng gì mắt nhìn thấy hẳn là hoàn toàn tốt đẹp? Này nhé, những
người phong hủi, ghẻ lở, khuyết tật ngũ quan; phân, xác thối, vật dơ uế, bất
tịnh; rồi còn những chuyện trái ý nghịch lòng, những cảnh chướng tai gai mắt...
đôi khi chúng mang đến khó chịu, bực bội hoặc mủi lòng thì có - chớ làm gì có
chuyện - cái gì mắt nhìn thấy đều đem đến hạnh phúc?”
Ông
giáo chủ cụt hứng, im re. Tuy nhiên, thật lạ lùng làm sao, ông vẫn truyền bá
được chủ thuyết ngây ngô
và ấu trĩ ấy đến quần chúng và cũng được rất đông mọi người tín mộ, nghe theo.
Nó vẫn tồn tại giữa cuộc đời. Chủ thuyết ấy được gọi là Diṭṭhamaṅgala -
có nghĩathấy là hạnh phúc!
Lại có vị giáo chủ
khác chủ trương “Nghe là hạnh phúc”- phạn ngữ là Sutamaṅgala.Ông
ta nói: “Nếu nói thấy là hạnh phúc thì thật là lầm, vì mắt không quan
trọng như người ta nói, chính tai mới là quan trọng. Mắt là một giác quan lười
biếng nhứt trong thân nầy; vật gì nằm ở phía trước và có ánh sáng nó mới trông
thấy được, nếu thiếu ánh sáng hoặc vật ấy ở sau lưng, nó không trông thấy được!
Thế là mắt không quan trọng bằng tai, vì tai nghe không cần ánh sáng, không cần
trước mặt, sau lưng, phương hướng nào nó cũng nghe được; vì vậy nên tôi quan
niệm rằng tai mới là vật đem lại hạnh phúc cho con người”.
Có người hỏi : “Thưa
ngài, vậy những tiếng gì đã nghe do nơi tai đều là hạnh phúc và an lành hết
chăng?
Vị giáo chủ ấy
đáp: “Chắc chắn vậy"
Người nọ hỏi: “Nếu
vậy khi nghe tiếng chửi bới nguyền rủa có phải là hạnh phúc chăng?”
Vị giáo chủ với chủ
trương “Nghe là hạnh phúc”không giải thích cho thông sự thật ấy
được!
Lại có vị giáo chủ
khác nữa, chủ trương rằng “Sự suy nghĩ là hạnh phúc”, phạn ngữ
làCintāmaṅgala. Vị ấy nói rằng: “Sự thật trong thân người,
bộ phận quan trọng nhất là tâm. Nhờ có tâm, con người mới biết được mọi việc;
có tâm mới hành động và phân biệt được mọi lẽ. Người biết suy nghĩ cũng do nơi
tâm, bởi tâm mới là nhân đem đến hạnh phúc cho nhân loại. Vạn vật trên vũ trụ
nầy đều do tâm tạo, nên tâm mới thật sự đem lại hạnh phúc cho ta”.
Có người đứng lên
hỏi: “Lời ngài dạy dường như chỉ đúng một nửa! Vừa rồi, có một bọn cướp
vừa bị xử trảm tại pháp trường! Có phải là do sự suy nghĩ của họ đem sự tai hại
cho họ hay không? Vậy ở đây phải cần thêm các yếu tố lành tốt hay xấu ác nữa
chứ?!”
Thế
là thêm một vị giáo chủ bị loại trừ. Nhưng thiên hạ bấy giờ vẫn còn cố gắng
tranh luận, đi tìm biết nguyên nhân của hạnh phúc, nói chung là cứ loanh quanh,
luẩn quẩn nơi lục căn và lục trần! Người ta thường đem
những lý thuyết trên kia ra tranh luận với nhau, sự tranh biện như thế kéo dài
đến 12 năm cũng chẳng ngã ngũ vào đâu. Đến sau, đức Thế Tôn đắc quả Vô Thượng
Chánh Đẳng Giác, ngài truyền bá chân lý sâu rộng trong cõi Diêm-phù-đề. Nhiều
người bạch hỏi đức Thế Tôn về Hạnh phúc, lúc ấy đức Thế Tôn mới dạy 38 pháp
hạnh phúc.
+ Ba mươi tám pháp
Hạnh phúc ấy, có thể chia ra làm hai loại là:
1. Hạnh phúc theo
quan điểm của các giáo chủ, đạo sĩ, triết gia: Là tự mình tìm
thấy một nguyên nhân nào đó đem lại hạnh phúc cho mình, rồi tưởng rằng, nguyên
nhân ấy cũng có thể đem đến hạnh phúc cho nhân loại. Trường hợp ba vị giáo chủ
ở trên, với quan niệm hạnh phúc ấy của họ - thì thật là hời hợt, nông cạn,
phiến diện, một chiều, rất giới hạn và rất cục bộ vậy!
2. Hạnh phúc do sự
thấy biết của đức Phật: Đây là những hạnh phúc do ngài thấy biết bằng sự chứng
ngộ, giác ngộ! Những hạnh phúc này không phải là quan niệm, quan điểm của cá
nhân ngài - mà nó là sự thực được ngài thấy biết bằng tuệ giác sau khi đắc đạo
dưới cội cây bồ-đề - nhờ công đức ba-la-mật huân tu trong vô lượng kiếp.
+ Phàm người muốn
được hạnh phúc thì phải thực hành 38 pháp, phân 3 cấp độ là:
1. Từ hạnh phúc thứ
nhất tới thứ pháp thứ 18, để tạo nên một đời sống hạnh phúc giữa nhân quần, xã
hội...
2. Từ pháp thứ 19 tới
pháp thứ 30 là để dạy tâm cho được vững chắc, trong sạch - không để cho tâm bị
tiền tài, danh vọng làm cho lung lay, hoen bẩn.
3. Từ pháp 31 tới
pháp 38 là để dứt phiền não, nhập Niết-bàn, là nơi an vui, hạnh phúc tuyệt đối.
Các bực tại gia cư sĩ
và các hàng xuất gia hành trì các pháp hạnh phúc ấy tùy theo trình độ tinh tấn
của mỗi hạng, từ các bực căn cơ thấp kém cho tới bực phước duyên tròn đầy. Nói
một thể khác thì, 38 hạnh phúc này dạy cho người Phật tử chơn chính - phương
pháp tìm kiếm và an lập được hạnh phúc tương đối ở trên đời; sau đó có thể hành
trì, tu tập thêm cho đến nơi giải thoát hoàn toàn, thọ hưởng hạnh phúc siêu
thế!
38
hạnh phúc được thuyết giảng trong mười câu kệ ngôn trình bày theo thứ tự sau
đây.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét