Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

38 pháp Hạnh phúc - 6-CÓ NGHỀ

HẠNH PHÚC VIII

Sippa: Có nghề [12]
(Nghề nghiệp giỏi - tiểu công nghệ)


Đức Thế Tôn dạy rằng nghề nghiệp đem hạnh phúc đến cho ta. Vậy ta cần hiểu biết:
- Nghề nghiệp là gì?
- Nghề nghiệp đem điều hạnh phúc gì lại cho ta?
- Làm sao ta có nghề?
Chú giải có dạy: Sippaṃ nāma anagariyava (?) sena duvidhaṃ hatthakusalaṃ:
- Nghề nghiệp là sự việc làm bằng tay chân hoặc trí óc và có hai nghề:
1. Nghề của người tại gia.
2. Nghề của hạng xuất gia
Pháp hạnh phúc thứ VII dạy ta cần biết rộng hiểu nhiều, nghĩa là dạy ta thâu thập cho nhiều kiến thức về giáo lý, về lý thuyết. Còn pháp hạnh phúc thứ VIII nầy thì dạy ta thực hành, đem kiến thức ấy mà áp dụng cho lợi lạc vì nghề nghiệp nào cũng cần có kiến thức làm căn bản. Vậy nghề nghiệp là kiến thức đem ra thực hành. Người không có kiến thức thì khó làm được nghề nghiệp tốt.
Người có nghề nghiệp giỏi đi tới nơi nào cũng được an vui, không thiếu thốn, đúng như câu cách ngôn: “Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh". Trong đời có nhiều nghề khác nhau, nghề mà người Phật tử còn tại gia cần phải lựa là nghề nào vô tội, gọi là chánh nghiệp [13]. Đức Thế Tôn có dạy con người khi còn trẻ nên học một nghề gì cho giỏi thì nghề ấy sẽ đưa sự an vui đến cho, như nghề anh chuyên môn búng sạn sau đây.
“- Khi xưa tại kinh đô Ba-la-nại (Bārāṇasī) có một người què nhưng có tài búng sạn rất giỏi. Những kẻ trong thành thường đẩy xe cho anh ra ngoài cửa thành, để anh dưới cội cây to, đem sạn đến và biểu anh dùng sạn búng lá cây thành hình thú nầy thú nọ kia coi chơi rồi cho anh tiền.
Ngày nọ nhà vua ngự chơi vườn thượng uyển, đi ngang qua chỗ ấy, những đứa trẻ kinh sợ bỏ chạy, chỉ còn mình anh què ở lại. Nhà vua trông thấy bừa bãi dưới đất những lá cây lủng lổ chổ có những hình thú rất ngộ, mới phán hỏi quan cận thần. Vị ấy tâu tự sự.
Nhà vua mới bảo anh què đến và hỏi: “Nầy cậu kia! trẫm có một vị quân sư có tật ham nói, khi trẫm muốn nói điều chi thì quân sư cướp lời hết, trẫm không nói gì được. Ngươi có phương kế chi làm ông ấy không nói gì nữa được chăng?
Anh què đáp: “Tâu Hoàng thượng! Nếu có vài cân phẩn dê thì hạ thần có phương thế làm được”.
Nhà vua bèn đem anh què về, để anh ngồi sau một tấm màn có khoét lỗ và để gần bên anh một cân phẩn dê khô. Đoạn ngài hội trào thần lại để bàn việc quốc gia.
Vị quân sư quen tật cướp lời nói của mọi người, vừa hả miệng toan cướp lời vua thì liền bị anh què sau lỗ màn búng một viên phẩn dê khô vào miệng. Ham nói quá, ông nuốt riết viên phẩn dê để nói. Mỗi lần ông hả miệng là bị một viên phẩn lọt vào, mà ông cứ nói không ngưng.
Đến khi vua trông thấy anh què đã búng hết phẩn. Ngài mới bảo quân sư rằng: “Nầy quân sư, vì tật ham nói, nên khanh nuốt hết một cân phẩn dê khô, mà vẫn chưa biết. Dạ dày của khanh không thể tiêu hóa được cân phẩn ấy, vậy khanh về uống thuốc xổ ra đi”. Vị quân sư cả thẹn ra về. Từ đấy ông không dám nói nhiều nữa.
Nhờ anh què mà lỗ tai vua đỡ bực, nên ngài ban cho anh què ấy thâu thuế bốn thôn được ước độ mười muôn dân.
Có một vị đại thần thấy thế mới tâu rằng: “Tâu Đại vương! Trong đời nầy dù người nào, nghề nào cũng cần phải học. Nghề búng sạn của anh què cũng được Hoàng thượng ban thưởng".
Rồi vị ấy mới nói câu kệ:
“- Sādhu kho sippaṃ nāma
Api yadisakīdisaṃ (?)
Passa ajapphārena
Laddhagāmā catudisā “[14].
Nghĩa là: Đã gọi là nghề dầu là nghề gì cũng làm cho ta được hưởng được lợi ích của nó.
Người biết nghề đành là có phần lợi lạc, mà cần phải biết áp dụng và áp dụng đúng lúc, đúng chỗ thì mới mang đến kết quả tốt đẹp; bằng áp dụng không thích nghi, không lựa nơi, lựa chỗ thì lại đem cái khổ đến cho mình - như sự tích của người học trò của anh què búng sạn trên kia.
“- Có một người học nghề búng sạn với anh què nọ. Sau khi học rành nghề, người ấy mới định thử tài của mình; thầm nghĩ: Nếu mình búng sạn thử vào bò, heo, dê... thì chủ họ sẽ bắt mình đến và bị phạt, bồi thường! Nếu búng sạn thử vào bất kỳ một người nào thì cha mẹ, họ hàng quyến thuộc của họ sẽ đập chết ta hoặc sinh ra kiện cáo lôi thôi!
Một hôm gặp đức Phật Độc Giác đang đi trì bình khất thực, anh chàng thầm nghĩ: Vị sa-môn này hoàn toàn cô độc, không nhà cửa, không gia đình, ta thử tài của ta thì thật là vô tội vạ! Tức thì anh liền búng một viên sạn vào lỗ tai của đức Phật Độc Giác, viên sạn đi xuyên từ lỗ tai bên này sang bên kia. Nếu là người thường thì chết liền tại chỗ vì viên sạn đó, nhưng đức Phật Độc Giác dùng thiền định chế ngự được thương tích nên về đến am thất, ngài mới nhập diệt.
Anh nọ lại tìm đến am thất của ngài, thấy tín đồ đang lo hỏa táng và than khóc, anh mới khoe: “Mấy người biết không? Người chết đây là do tài búng sạn của tôi đó!”
Tưởng khoe như vậy là người ta kính nể và khen mình, nào ngờ tín đồ nổi giận, lôi anh ra đánh chết. Vì tội giết đấng cao cả nên sau khi chết anh sanh vào địa ngục A-tỳ”.
Vậy người Phật tử chân chính nên chọn lấy một nghề gọi là chánh nghiệp ( phải là chánh mạng) mới được hạnh phúc.
Nhưng làm sao cho ta có nghề? Điều rất giản dị là muốn có nghề, thì phải cố học.
Về nghề của bậc xuất gia, đức Thế Tôn có dạy rằng: “Nầy các thầy tỳ-khưu! Thầy tỳ-khưu trong Phật đạo phải siêng năng giúp nhau hành Tăng sự dù mọi việc lớn hay nhỏ.
Nên dùng trí tuệ quan sát mọi việc coi nên làm hay không?”[15]
Vậy các bực xuất gia phải có nghề trong phạm vi của bực xuất gia, mà nghề của bực xuất gia là Tăng sự, như: Lễ xuất gia, lễ nhập hạ, lễ dâng y, lễ ra hạ, lễ phát lồ... thầy tỳ-khưu phải thông hiểu.

+ Hơn nữa, thầy tỳ-khưu còn nên học thông 8 điều cũng thuộc vào nghề của mình là:

1. Rakkhāndriyasippaṃ: Nghề giữ lục căn thanh tịnh.
2. Sādhukasippaṃ: [16] Nghề biết ba điều lợi ích [17].
3. Nānābhāsākovidhasippaṃ: [18] Nghề hiểu thông nhiều thứ tiếng là Bắc phạn và Nam phạn.
4. Dhammaratasippaṃ: [19] Nghề biết thỏa thích. Có 10 pháp nương nhờ:
a. Sīla: Trì giới trong sạch
b. Bāhusucca: Học nhiều hiểu rộng.
c. Kalyāṇamitta: Có bạn lành
d. Sovacassatā: Tư cách biết vâng lời, dễ dạy
đ. Dakkhatā: Tư cách người siêng năng, khéo léo, thông thạo, có khả năng.
e. Dhammakāmatā: Tư cách người ưa thích pháp
ê. Viriya: Tư cách người có tinh tấn hành đạo
g. Santosa: [20] Có trí thức
h. Sati: Có trí nhớ (có niệm).
i. Sukhasikkhāsippaṃ: Học biết 7 điều an lạc là:
- Manussasukhaṃ: An vui trong cõi người
- Divasukhaṃ: An vui trong cõi trời
- Jhānasukhaṃ: An vui của thiền định
- Vipassanāsukhaṃ: An vui của minh sát tuệ
- Maggasukhaṃ: An vui của đạo
- Phalasukhaṃ: An vui của quả
- Nibbānasukhaṃ: An vui của Niết-bàn
5. Nānāsippanvisada: Nghề hiểu rõ các chi tiết của nghề.
6. Kulasīlasippaṃ: Nghề hiểu rõ phận sự của người còn ở trong gia đình.
7. Bhītasippaṃ: Nghề hiểu rõ hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi là nguyên nhân sinh ra những học giới để ngăn ngừa, rào đón chúng ta khỏi sanh vào ác đạo.
8. Buddhasippam: Nghề hiểu rõ pháp bảo là Tam tạng.

+ Người có nghề nghiệp giỏi [21] thì được những hạnh phúc nầy:

- Trở nên người lành.
- Làm cho mình hơn người bên mình.
- Làm cho mình giỏi hơn người khác.
- Làm cho mình tốt hơn người khác.
- Làm cho mình cao thượng hơn người khác.
- Làm cho mình cao cả hơn người khác.
- Tự mình sinh sống được dễ dàng hơn.
- Làm cho mình trở nên người khôn ngoan hơn kẻ khác.
- Làm cho mình giàu hơn người khác
- Làm cho mình có an vui hơn người khác.
- Làm cho mình trở nên người có giá trị hơn người khác.
- Làm cho xã hội được tiến hóa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét