Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2016

38 pháp Hạnh phúc-38-NIẾT BÀN

HẠNH PHÚC XXXIV

Nibbānasacchikiriyā: Nết hạnh làm cho thấy rõ Niết Bàn

(Chứng ngộ Niết-bàn)

Niết-bàn có nghĩa là ra khỏi vòng cương tỏa của ái dục, ý nói ra khỏi nơi bị trói buộc, hay ra khỏi luân hồi.
Niết-bàn có nghĩa là dập tắt lửa tham lam, sân hận, si mê.
Niết-bàn có nghĩa là không có sự kết dính, câu thúc, sai khiến bởi 10 kiết sử.
Phạn ngữ, Nam phạn nibbāna và Bắc phạn là nirvāṇa, đều được âm là Niết-bàn, nghĩa giống nhau, nhưng cần chiết tự cho dễ hiểu.
Ni có nghĩa là ra, đi ra; vana có nghĩa là phiền não, cũng có nghĩa là rừng. Theo thể thức văn phạm của phạn ngữ, chữ v của vana đổi lại b (bana) cho dễ đọc. Nếu đã đổi v thành b và chữni đứng trước nghĩa là “Ra khỏi phiền não”hay “Ra khỏi rừng”.
Tại sao lại gọi là “Ra khỏi rừng”? Vì rừng là nơi trú ẩn các loại dã thú, đầy nguy hiểm đối với người lạc đường. Rừng ấy ví như cõi sa-bà thế giới, đầy sự nguy hiểm và dã thú, là người ác, mà ta là người đi lạc trong luân hồi. Vậy người đi đến Niết-bàn là người đi ra khỏi rừng hay là ra khỏi luân hồi.

    + Niết-bàn có những đặc điểm :

1. Hoàn toàn an tịnh là trạng thái.
2. Bất tử là vị.
3. Không giới hạn là hiện tượng.

+ Niết-bàn có hai hạng là:

1. Sa-upādisesanibbāna: Hữu dư Niết-bàn. Niết-bàn của vị thánh nhân đã tới bậc A-la-hán mà chưa nhập diệt, còn mang thân ngũ uẩn này. Vậy hữu dư Niết-bàn là Niết-bàn còn dư sót phiền não, còn chịu sự tác động của các định luật nhiên giới lên thân và tâm.
2. Anupādisesanibbāna: Vô dư Niết-bàn, nghĩa là khi vị A-la-hán dứt bỏ tấm thân nầy để nhập diệt thì không còn dư sót, dính mắc phiền não nào nữa.

+ Hai hạng Niết-bàn ấy có chỗ cũng gọi là:

1. Kilesaparinibbāna: Phiền não Niết-bàn, ý nói vị thánh nhơn đã hoàn toàn chấm dứt mọi kiết sử, chưa nhập diệt; tên gọi khác của hữu dư y.
2. Khandhaparinibbāna: Ngũ uẩn Niết-bàn, nghĩa là vị A-la-hán đã xả bỏ thân ngũ uẩn nầy, đã nhập diệt; tên gọi khác của vô dư y.
Đức Thế Tôn có dạy rằng: Như Lai nhờ tuệ nhãn, nhờ đã diệt được ái dục và tà kiến nên Như Lai thấy rõ rằng, khi người đắc A-la-hán quả mà chưa nhập diệt thì gọi là Hữu dư Niết-bàn, còn đã nhập diệt thì gọi là Vô dư Niết-bàn.
Rải rác trong kinh điển, đức Phật còn xác định rằng: Niết-bàn của các bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm cũng gọi là hữu dư Niết-bàn; vì các vị nầy là thánh nhơn nhưng chưa đi đến nơi hoàn toàn giải thoát.
Vậy, Niết-bàn ấy ra sao? Có thể nói ra cho mọi người cùng hiểu, cùng thấy, cùng biết, được chăng?
Niết-bàn không có hình thể nên không có gì ví dụ được.
Trong bộ kinh Mi-lan-đà vấn đạo, đại đức Na-tiên tỳ-khưu, có dạy đức vua Mi-lan-đà rằng:
“- Tâu đại vương! Niết-bàn không có chi sánh bằng, không thể chỉ hình thức được, và không thể nào đem ra nói bằng lời được, vì Niết-bàn tuyệt đối ngoài tất cả các sự vật.
Tâu đại vương! Chỉ có người hành minh-sát-tuệ thì càng ngày càng thấy rõ danh sắc, diệt trừ phiền não, tâm hoàn toàn không còn mê theo danh sắc, nghĩa là người hoàn toàn đến Niết-bàn. Người đắc Niết-bàn chỉ có riêng người ấy biết mà thôi, cũng như người bệnh, chính họ mới biết bệnh của họ đã thuyên giảm, vì khi bệnh hành thì khổ, mà chừng cái khổ ấy từ từ mất lần đi, thì người bệnh mới nhận thấy rõ rệt”[44].
Vì vậy, đức Thế Tôn dạy đắc pháp Niết-bàn ấy ở trong tâm, người trí tự mình giác hiểu.
Tôi có thấy trong bài kinh Nibbānasatrapali có một thầy bà-la-môn Jambūkhādaka thưa hỏi đại đức Xá-lợi-phất “Niết bàn là gì?”Ngài đã trả lời: “Không còn tham lam, sân hận và si mê - đấy tạm gọi là Niết-bàn, nầy đạo hữu!”
Và cũng có lần, nhân một vị tỳ-khưu thắc mắc về vấn đề Niết-bàn, đức Phật cũng trả lời y như thế. Tuy nhiên, thấy nhiều vị tỳ-khưu vẫn còn những mối nghi ngờ xung quanh “hiện thực”Niết-bàn, đức Thế Tôn đành phải đưa ra ví dụ:
“- Nếu có người đau nặng, rất nguy nan, gia đình mời một vị đại lương y đến chẩn mạch; thấy bệnh rất trọng, thầy bèn bốc thuốc bảo phải uống ngay! Nầy các thầy tỳ-khưu! Trong trường hợp ấy, bệnh nhân nên uống thuốc ngay; hay không chịu uống mà cất tiếng hỏi: Thầy là ai? Từ đâu đến? Học thuốc với ai? Thuốc ấy là thuốc gì, vị gì?
- Bạch đức Thế Tôn! Người bệnh ấy phải lo mà uống thuốc ngay - chứ ai đời lại cất tiếng hỏi những lời vu vơ, ngớ ngẩn như thế!
Đức Phật kết luận: Cũng vậy, nầy các thầy tỳ-khưu! Như Lai xuất hiện ở cõi đời khổ đế nầy cũng với tư cách là một vị lương y - mà các thầy là những người bệnh nhân đang ở trong tình trạng nguy kịch, chỉ còn chờ chết. Như Lai đã đưa ra những phương thuốc quý để chữa bệnh cho các thầy, các thầy đã không chịu uống, lại còn cất tiếng hỏi những lời vu vơ, ngớ ngẩn như Niết-bàn là gì? Niết-bàn ở đâu? Tại sao các thầy không chịu uống thuốc? Niết-bàn là nơi chấm dứt tất cả khổ. Vậy thì khi các thầy uống thuốc rồi, lành bệnh rồi, chấm dứt tất cả khổ rồi - thì các thầy sẽ tự biết lành bệnh sẽ ra sao, chấm dứt tất cả khổ sẽ ra sao! Đừng để bệnh chứng càng ngày càng thêm nặng, hãy uống thuốc đi - đầy là lời đầy từ ái và bi mẫn của Như Lai!”
Căn cứ theo Phật ngôn trên đây, ta nhận thấy đức Phật không dạy suông mặt lý thuyết, mà dạy chúng sanh thực hành rồi sẽ thấy kết quả và giá trị của việc làm.
Trở lại hữu dư và vô dư Niết-bàn, tôi xin nhắc lại câu Phật dạy trong phẩm Sattamasulla Dutivavagga ở bộ Itivuttaka rằng:
“- Nầy các thầy tỳ-khưu! Trong kiếp hiện tại này, thầy tỳ- khưu nào là người xa phiền não,hết thụy miên phiền não, đã hoàn bị phạm hạnh, nhiệm vụ phải làm đã làm xong, đã quăng bỏ mọi gánh nặng, đã làm xong điều lợi ích cho mình, đã cởi mở mọi kiết sử - là nhân tạo ra các hữu đau khổ, phiền não - đã giác ngộ và giải thoát, song còn có ngũ uẩn, thì đó gọi là hữu dư Niết-bàn. Còn vị tỳ-khưu nào đã làm xong phận sự trên, đồng thời tịch diệt không còn ngũ uẩn nữa, gọi là vô dư Niết-bàn”.
Trong câu Phật ngôn trên đây, chúng ta để ý những cụm cừ quan trọng:
- Phiền não và hết thụy miên phiền não.
- Đã hoàn bị phạm hạnh.
- Nhiệm vụ phải làm đã làm xong.
- Đã quăng bỏ mọi gánh nặng.
- Đã làm xong điều lợi ích cho mình.
- Đã cởi mở mọi kiết sử.
- Đã giác ngộ và giải thoát.
Chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu.
+ Phiền não và thụy miên phiền não:
 Tiếng “phiền não”là ngụ ý chỉ tham, sân, si; và “hết thụy miên phiền não”là dứt được 4 trầm nịch [45]:
1. Kāmāsava: Trầm nịch trong tình dục
2. Bhavāsava: Trầm nịch trong tam giới
3. Diṭṭhāsava: Trầm nịch trong tà kiến
4. Avijjāsava: Trầm nịch trong vô minh [46].
+Đã hoàn bị phạm hạnh: Nghĩa là đã tu hành đúng theo 10 pháp: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ, chánh giải thoát.
 + Nhiệm vụ phải làm đã làm xong: Ý nói các ngài đã diệt được hết phiền não bằng giới, định, tuệ.

+ Đã quăng bỏ mọi gánh nặng: Các ngài đã quăng bỏ ba gánh rất nặng là:

  1. Khandhabbāra: Gánh nặng ngũ uẩn
2. Kilesabbāra: Gánh nặng phiền não.
3. Abhisaṅkhārabbāra: Gánh nặng nghiệp (tích lũy nghiệp, tàng trử nghiệp).
+ Đã làm xong điều lợi cho mình: Ý nói đã đạt lợi lạc tối thượng là quả vị A-la-hán.
+ Đã cởi mở mọi kiết sử là nhân của mọi sanh hữu: Đây chính là 10 kiết sử phiền não, chúng trói buộc chúng sanh, sai khiến chúng sanh, làm điên đảo chúng sanh, xoay chuyển chúng sanh, che mờ tâm trí chúng sanh:
1. Sakkāyadiṭṭhi: Thân kiến
2. Vicikicchā: Hoài nghi
3. Sīlabbatāparāmāsa: Giới cấm thủ
4. Kāmacchanda[47]: Thích thú trong trần dục
5. Byāpada [48]: Sân hận
6. Rūparāga [49]: Thích thú trong cõi sắc
7. Arūparāga [50]: Thích thú trong cõi vô sắc
8. Māna: Ngã chấp
9. Uddhacca: Phóng tâm
10. Avijjā: Vô minh [51].
+ Đã giác ngộ, giải thoát: Ý nói không còn lầm lẫn cho rằng vạn vật thường tồn tại, vạn vật đem lại an vui cho ta, và thân này là ta; vị ấy giác ngộ sự thật và hoàn toàn thành tựu chánh trí, giải thoát.
+ Thấy rõ Niết bàn được hạnh phúc là:
1. Được an vui trong kiếp hiện tại.
2. Không còn đọa vào ác đạo.
3. Giải thoát khỏi khổ và phiền não.
4. Được sự an vui hoàn toàn, tuyệt đối.
5. Không còn luân hồi.


[1] Jambudīpa: Tàu âm là Diêm-phù-đề, chỉ bán đảo Ân Độ. Nếu dịch nghĩa là bán đảo có cây đào, cây mận đỏ.
[2] Ghi chú thêm để khỏi lẫn lộn. Brāhman: Đấng phạm thiên với nghĩa là thượng đế, sáng hóa chủ, sáng tạo chủ của bà-la-môn giáo. Brāhmā: Thần sáng tạo. Vishnu: Thần bảo tồn. Shīva: Thần hủy diệt. Brāhmaṇa: Thuộc dòng bà-la-môn, người bà-la-môn.
[3] Tất cả từ Pāḷi ở đây, đa phần do bổn xưa sai lạc nên không tìm ra từ gốc, nếu tìm ra nghĩa thì nó không chính xác theo lời giảng. (Quá mất thì giờ nên chỉ xin ghi chú tổng quát như thế).
[4] Không rõ tại sao lại có thêm phần này sau câu 16.
[5] Như lý tác ý: Hướng tâm đúng với lý như chân như thực.
[6] Thật ra là còn sáu em, 3 trai, 3 gái. Đó là Cunda, Upasena, Revata, Cālā, Upacālā, Sīsupacālā.Cậu bé này chính là Revata.
[7] Đây là Revata - chú bé lúc ấy mới có 7 tuổi.
[8] Tại một khu rừng, nơi có 30 vị tỳ-khưu đang hành đầu-đà.
[9] Xin chú thích lượt nữa, khi hành giả tu tập vipassanā mới có tuệ nầy - còn trong đời sống thường nhậtt, mọi suy nghĩ của nó chỉ là trí mà thôi.
[10] Rất nhiều hạng người không thể đắc quả trong kiếp này - nhưng ở đây không ghi chú, không xác định 4 hạng người ấy là ai. Theo Abhidhamma thì trong 8 thiện tâm tịnh quang, có 4 tâm có 3 nhân vô tham, vô sân, vô si; có 4 tâm chỉ có hai nhân là vô tham, vô sân. Trong đời này, sanh làm người nếu là dị thục tâm do 3 nhân vô tham, vô sân và vô si - thì người ấy được nhiều phước báu, ngũ quan toàn hảo, có trí  và có khă năng đắc định, đắc đạo quả. Còn dị thục tâm của người nào chỉ có 2 nhân là vô tham, vô sân - nghĩa là không có vô si (tức không có trí) thì người ấy ít phước báu, ngũ quan có thể bị khuyết tật, thiểu trí và không có khả nặng đắc định, đắc đạo quả. 4 hạng người không thể đắc quả có thể là 4 hạng người chỉ có 2 nhân này chăng?
[11] Câu chuyện này được kết tập về sau, do các sư thuật lại, không rõ sự chính xác có đáng tin cậy không. Ta không thể tìm cách biện minh - như nhiều người đã làm - để che đậy bớt ý đồ, ác tâm, dối trá hư ngụy và tà kiến của Đế Thích được.
[12] Appamāṇa: Vô giới hạn. Appamaññā: Vô lượng, vô biên - chỉ tứ vô lượng tâm.
[13] Tàu âm chữ Sāvatthī.
[14] Cách giảng này chỉ nhằm cho đại chúng dễ nắm bắt khái quát. Nếu đi vào Kinh và Abhidhamma thì chúng phức tạp hơn nhiều. 1- Từ vô lượng: Gồm đủ  lòng từ ái, thiện ý, hảo tâm, thiện ái, bác ái, nhiều tình thương; nhưng nghĩa chính xác hơn - là tình thương vô điều kiện, vô giới hạn, quảng đại bao trùm thiên nhiên, người vật và cây cỏ. Từ vô lượng là một năng lượng làm cho ta và chúng sanh cùng êm dịu, mát mẻ, an lành. Nó đối trị trực tiếp với các trạng thái tâm: sân, ghét, ác ý, nóng nảy, hung dữ... 2- Bi vô lượng: Là lòng bi mẫn, biết thương xót, biết rung động trước sự đau khổ, bất hạnh của người khác; muốn xoa dịu, ủi an người khác trước hoạn nạn, nghịch cảnh, thống khổ, neo đơn, cô quả, tai ương, tật nguyền, đói rách... Bi vô lượng là một năng lượng bao trùm đồng đẳng mọi chúng sanh đau khổ, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, chủng tộc, nam nữ, trẻ già, huyết thống, ngu trí, hèn sang, tên tội đồ hoặc vị quân vương! Nó đối trị trực tiếp với các trạng thái tâm: hận thù, ác độc, bạo tàn... 3- Hỷ vô lượng: Nói cho dễ hiểu là mừng vui - nhưng là một trạng thái mừng vui thanh lương, nhẹ nhàng, vô nhiễm, thanh khiết, vắng lặng - nó vắng mặt bóng tối của tư kỷ, vị kỷ, vắng mặt các yếu tố, điều kiện từ thế giới vật dục lắm bụi bặm và phiền não. Hỷ vô lượng là một năng lực tự có từ bên trong, không nương nhờ các điều kiện phụ tùy từ thế giới vật chất ở bên ngoài. Nó là một năng lượng tuôn tràn từ một nội tâm có tu tập - một nội tâm đã làm cho lắng dịu mọi bất bình, oán ghét, ganh tỵ - là kẻ thù trực tiếp của nó. (Lưu ý: Chướng ngại trực tiếp của của từ, bi, hỷ đều có từ căn sân. Nhưng đối ngại của từ là sân, nóng nảy, ác ý, hung dữ. Đối ngại của bi là hận thù, ác độc, bạo tàn. Đối ngại của hỷ là ganh ghét, ganh tỵ.) 4- Xả vô lượng: Là quân bình, vô tư, không luyến ái cũng không ghét bỏ, không ưa thích cũng như không bất mãn trước những tình huống của cuộc đời; nói cách khác, trước những thành bại, được mất, khen chê, hơn thua, vui khổ... tâm xả vẫn điềm nhiên, an nhiên, bình lặng. Nó còn được ví như lá sen, không hề giữ lại mà làm trượt đi tất cả những giọt nước dù dơ, dù sạch từ đâu rơi xuống. Đối ngại trực tiếp của xả vô lượng là luyến ái và thiên chấp. Cuối cùng, điều cần lưu ý là tứ vô lượng tâm cần công phu thiền định miên mật, trường kỳ - không thể có trong đời sống bình thường. Từ, bi, hỷ chỉ có được từ đệ nhất đến đệ tam thiền; riêng tâm xả phải là đệ tứ thiền!
[15] Tapa rất nhiều nghĩa. Dù tapa nghĩa nào cũng không công trú với phạm thiên nếu không đắc các tầng thiền định.
[16] Cả  đoạn này cũng cần được giải thích thêm. Bố thí mà không có trì giới thì chưa biết sinh vào cõi người và cõi trời nào; ngoại đạo cũng bố thí vậy. Bố thí mà có trì giới thường sanh vào cõi người hoặc trời có tốt đẹp, cả phú lẫn quý. Bố thí mà có bát quan trai giới nữa cũng chỉ sanh cõi người và trời có chánh kiến, gieo duyên giải thoát. Trì giới, nhất là bát quan trai giới, dĩ nhiên là thù thắng hơn bố thí nhờ giới hạnh trong sạch nhưng không thể sanh làm phạm thiên. Nếu có thể ví dụ được, thì phước bố thí chỉ sanh phú (giàu), không sanh quý (sang) - phước trì giới thì quý nhưng không phú. Cả bố thí và trì giới thì được cả phú lẫn quý - nhưng chỉ ở cõi người và 6 cõi trời dục giới mà thôi.
[17] Sammāsati: Sammā người ta thường dịch là chánh (chánh niệm) - nhưng thật ra sammā  ngoài nghĩa là chánh mà còn là chơn, như thực, như chơn, chính xác, đúng, ngay, toàn diện, trọn cả... Vậy, trong bát chánh đạo, từ chánh kiến đến chánh định đều được hiểu như thế để khỏi sai lạc khái niệm. Trong chánh niệm, không đơn thuần là niệm thân mà còn niệm thọ, niệm thân, niệm pháp. Tuy nhiên, đến giai đoạn vipassanā thì tất cả các niệm này đều là niệm như thực, niệm như chơn, như chánh.
[18] Lưu ý: Bà-la-môn giáo cũng có bát thiền và ngũ thông. Phải phân biệt cho rõ, tại sao các tầng thiền của ngoại đạo, ta lại gọi là tà định; các tầng thiền của Phật khác ngoại đạo ở chỗ nào mà được gọi là chánh định? Chỉ khác một điều, thiền định của Phật hướng đến giác ngộ, giải thoát - còn thiền của ngoại đạo, cũng đắc những tầng thiền như vậy nhưng họ dính mắc, sở đắc và chấp thủ.
[19] Phải dịch là học tập về tăng thượng giới. Tiếp theo là tăng thượng tâm và tăng thượng tuệ.
[20] Cần dụng ngữ tiếng Việt cho chính xác theo nghĩa Pāḷi: Hiểu và biết thuộc phạm trù của lý trí, trí năng; thấy và thấy rõ thuộc lãnh vực của tuệ giác, giác tri.
[21] Con số 12 này tác giả không giải thích, nhưng theo liệt kê ở phần 2 có 8 khổ, thêm chấp thủ ngũ uẩn và sanh, già, chết nữa là 12. Tuy nhiên, ta thấy nơi chỗ 8 khổ ấy có sự trùng lặp - ví dụ, cầu bất đắc là đầy đủ tất thảy nội dung: Trái ý nghịch lòng, thất vọng, bực tức, uất ức, không được như ý. Ví dụ, ái biệt ly, oán tăng hội là đầy đủ nội dung còn lại: Thân ái biệt ly, oán thù hội ngộ, ly biệt người yêu! Như vậy, chỉ cần tóm tắt 3 khổ: Cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tăng hôi là đủ cho nội dung ấy. Từ xưa đến nay, các vị kết tập sư chỉ cần cô đọng trong 8 khổ: Sanh, già, bệnh, chết, cầu bất đắc, ái biệt ly, oán tăng hội, thủ ngũ uẩn.
[22] Hao mòn, già nua, hư cũ.
[23] Quá khứ của động từ paripaccati, nghĩa là chín, thật chín, hoàn toàn chín.
[24] Vì có lẽ là bài thuyết pháp nên pháp sư chỉ giảng sơ lược. Xin bổ túc thêm một chút. Kāmataṇhā:Dục ái (biểu hiện của si) - tham muốn dục vật chất, hưởng thụ đắm say dục lạc ngũ trần - chỉ cõi dục giới, tức là từ cõi địa ngục đến cõi trời Tha hóa tự tại.

[25] Bhavataṇhā: Bhava là hữu nên nghĩa là hữu ái (biểu hiện của tham). Đây là lòng tham muốn, tham đắm, muốn chiếm hữu, muốn lưu giữ lại bên mình nhưng đối tượng khả ái, khả ý, khả lạc. Nói cách khác, khi yêu thích cái gì rồi thì muốn cái ấy ở mãi bên mình, với mình (hữu ái). Các vị trời phạm thiên có hạnh phúc rất thù thắng, thanh tịnh; có tuổi thọ bằng nhiều kiếp quả địa cầu nên họ mang ảo tưởng đã đạt được  Niết-bàn với 4 đức tính thường, lạc, ngã, tịnh - rơi vào thường kiến.
 Rūpataṇhā: Sắc ái - là ái dục trong cõi sắc, sắc giới - tức là yêu thích, tham muốn những cảm thọ tế vi của tinh thần, đấy là hỷ, lạc, xả của các tầng thiền định sắc giới. Vibhavataṇhā: Phi hữu ái (biểu hiện của sân) tức là tâm lý bực tức, bất mãn, chán ghét, oán hận, khó chịu khi đối diện với hiện tượng không vừa lòng, không thích ý với ta. Ta muốn đoạn diệt nó, chấm dứt nó, phi hữu hóa nó ngay. Trường hợp khác, có người cái gì cũng sợ mất, sợ hết, sợ chết nên hối hả hưởng thụ, quay cuồng, điên loạn hưởng thụ - lại rơi vào hư vô luận, đoạn diệt kiến - đoạn kiến. Arūpataṇhā: Vô sắc ái - là loại ái dục phát sanh do chán các sắc, sắc tướng, sắc pháp. Họ chán luôn cái thân sắc dù thô hay tế. Họ chỉ muốn sống với các ý niệm, khái niệm trừu tượng mà thôi. Tương ứng với loại ái dục này, họ từ bỏ các thiền sắc giới để tu tập các thiền vô sắc giới. Tại đây, họ không còn thọ hưởng các cảm thọ thô tháo nữa; hạnh phúc vi tế, thanh lương, cao sáng của họ là xả và định.
Tóm lại, cả ba loại ái dục trên không những tương ưng với 3 cõi: Dục giới,  sắc giới và vô sắc giới mà chúng còn biểu hiện trong đời sống thường nhật. Ai hằng sử dụng Vipassanā để tu tập, hiện quán, sẽ thấy rõ rằng:Lúc nào ta đắm say các đối tượng dục lạc ngũ trần với trạng thái tâm đờ đẫn, si mê thì đó chính là kāmataṇhā - si, dục ái. Lúc nào ta tham muốn, bị hút dính vào các đối tượng dục lạc ngũ trần mà không muốn xa rời, chỉ muốn chiếm hữu, muốn nó ở  mãi bên mình - thì đây chính làbhavataṇhā - tham, hữu ái, thường kiến (Muốn trẻ mãi không già, muốn đóa hoa nở đừng tàn, muốn một chủ thuyết, một chế độ chính trị muôn năm bất diệt cũng rơi vào hữu ái, thường kiến này). Lúc nào tỏ ra chán ghét, không vừa lòng, không thích ý một đối tượng ngũ trần nào đó,  ta muốn rời xa nó, chấm dứt nó, đoạn diệt nó, phi hữu hóa nó - thì đây chính là biểu hiện của vibhavataṇhā - sân, phi hữu ái, đoạn kiến.
Như vậy, dục ái, nếu tính 6 căn, 6 trần có 12 loại ái dục, tính thêm quá khứ, hiện tại, vị lai - thì dục ái, si, kāmataṇhā có 36 loại ái dục; hữu ái, tham, bhavataṇhā - tương tợ như trên cũng có 36 loại ái dục; phi hữu ái, sân, vibhavataṇhā - cũng có 36 loại ái dục như thế; tổng cọng 108 ái dục.
[26] Tuổi thọ của cõi trời thấp nhất là 9 triệu năm. Tuổi thọ của cõi trời phạm thiên cao nhất là 84 ngàn a-tăng-kỳ,  khoảng hằng ngàn lần sự sinh diệt của quả địa cầu. 
[27] Ái dục dẫn dắt đi tái sanh.
[28] Xin diễn đạt lại cho chính xác theo kinh điển: Khổ đế là phải thấy, Tập đế là phải diệt, Diệt đế là phải chứng, Đạo đế là phải thực hành.
[29] Tương tự như ghi chú ở trên, nhưng tôi muốn giải thích một chút nữa bằng dụ. Khi nghe một lời sỉ nhục, ta bực tức khó chịu, sân hận nổi lên, toàn bộ tâm sinh lý bị thiêu đốt. Nhờ có tu tập thiền quán nên ta thấy rõ, bèn sử dụng chánh niệm tỉnh giác rồi ghi nhận như thực “sân à, sân à”- một hồi thì thân tâm ta đã trở lại trạng thái bình thường, an tĩnh, mát mẻ vì sân hận ấy đã diệt mất rồi. Thử phân tích theo Tứ diệu đế: Ta thấy rõ sự thật một cái khổ ( khổ đế) là do sân hận (ái dục - tập đế); ta bèn sử dụng niệm, tỉnh giác (niệm đại biểu cho chánh niệm, chánh định; tỉnh giác đại biểu cho cho chánh kiến - tuệ - nói cách khác của bát chánh đạo - đạo đế) để nhìn ngắm như thực cái sân hận ấy, một hồi liền chấm dứt khổ (diệt đế). Vậy, nếu lập ngôn - dùng diệt đế và đạo đế để trừ diệt khổ đế và tập đế - thì không đúng với tu tập thiền quán vipassanā.
[30] Chánh tư duy là: Không dục tư  duy, không sân tư duy, không hại tư duy.
[31] Ngoài 3  nghề trên còn 2 nghề khác nữa được coi là tà mạng: 1- buôn bán vũ khí như súng đạn, gươm giáo, cung tên... 2- Buôn bán độc dược, thuốc sâu rầy, ma túy...
[32] Chánh tinh tấn còn được gọi là Tứ chánh cần (sammappadhāna): 1- Tinh cần thu thúc, phòng hộ (saṃvarapadhāna): Ngăn ngừa, ngăn chặn không cho các bất thiện pháp chưa sanh, được sanh khởi ( Ác vị sanh, sử bất sanh). 2- Tinh cần đoạn trừ, đoạn diệt (pahānapadhāna): Các ác, bất thiện pháp đã phát sanh thì phải tinh cần, nỗ lực để trừ khử, đoạn diệt chúng (Ác dĩ sanh, sử trừ đoạn). 3- Tinh cần tu tiến (bhāvanāpadhāna): Các thiện pháp chưa sanh hãy tu tiến làm cho chúng phát sanh (Thiện vị sanh, sử phát sanh). 4- Tinh cần bảo tồn, trưởng dưỡng (anurakkhanāpadhāna): Các thiện pháp đã sanh rồi thì hãy nỗ lực bảo vệ, bảo tồn làm cho chúng được tăng trưởng lớn mạnh (Thiện dĩ sanh, sử tăng trưởng).
[33] Pháp sư chỉ muốn cho thính giả biết khái lược nên giảng quá tóm tắt. Tứ niệm xứ khá phức tạp. Đây là những ngữ nghĩa cô đọng nhất, tinh yếu nhất. 1/ Thân quán niệm xứ (kāyānupassanā-satipaṭṭhāna): Quán tưởng, lấy thân sắc làm đề mục... ví dụ niệm thân chỉ là tứ đại, niệm hơi thở, niệm bốn oai nghi, quán tưởng 32 thể trược, tử thi... 2/ Thọ quán niệm xứ (vedanānupassanā-satipaṭṭhāna): Quán tưởng, lấy các đối tượng cảm thọ làm niệm xứ như khổ, lạc, xả, ưu, hỷ... 3/ Tâm quán niệm xứ (cittānupassanā-satipaṭṭhāna): Quán tưởng, lấy các trạng thái tâm làm đề mục niệm xứ - như tâm có tham, tâm không tham, tâm có sân, tâm không sân, tâm có si, tâm không si, tâm khinh an, tâm phóng dật, tâm cao thượng, tâm hạ liệt... 4/ Pháp quán niệm xứ (dhammānupassanā-satipaṭṭhāna): Quán tưởng, lấy các pháp trong khi tu tập làm đề mục niệm xứ - như 5 triền cái, 5 uẩn, 12 xứ, 7 giác chi, Tứ thánh đế...
[34] Xem thêm ghi chú 129, 130.
[35] Danh là phần tâm và tâm sở; nói cách khác, danh là 4 danh uẩn - thọ, tưởng, hành và thức. Sắclà thân xác vật lý, là thân sắc - gồm nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn và thân căn cùng 7 sắc đối tượng là sắc, thanh, hương, vị, xúc, địa, hỏa, phong.
[36] I/- Danh khởi sanh: Ví dụ, nhãn thức sanh. Cái biết của con mắt chỉ phát sanh khi gồm đủ 4 yếu tố: 1- Nhãn môn sẵn sàng tiếp nhận sắc. 2- Ánh sáng đủ. 3- Sắc trần có hình dạng rõ ràng. 4- Có tịnh nhãn căn tốt (thần kinh của mắt tốt). II/- Sắc khởi sanh: Có 4 nguyên nhân làm cho sắc khởi sanh. 1- Sắc khởi sanh do nghiệp (kammajarūpa): Thức tái sanh do năng lực của nghiệp - tìm gặp tinh trùng và noãn châu mà tạo ra săc đầu tiên của thai nhi. 2- Sắc khởi sanh do tâm (cittarūpa): Do hỷ, nộ, ái, ố hoặc đi đứng ngồi nằm... mà sắc chuyển động hoặc biểu hiện ra bên ngoài. 3- Sắc khởi sanh do thời tiết (utujarūpa): Lúc nóng, lạnh, gió, mưa... tác động mà tạo nên các sắc khác nhau. 4- Sắc sanh khởi do vật thực (āhārajarūpa): Do ăn uống, do vật thực mà tạo ra sắc thân, nuôi dưỡng và phát triển sắc. Ngoài ra, Ahidhamma còn cho ta biết đời sống của một sắc pháp, từ sanh đến diệt, diễn ra trong 17 sát-na tâm.
[37] 1- Danh diệt: Khi mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh (cũng là sắc) - một lộ trình tâm khởi lên để tiếp nhận, xử lý sắc ấy. Nếu muốn biết một sắc khắc thì cái biết trước (danh) phải diệt để nhường chỗ cho cái biết tiếp theo. Đây gọi là danh diệt. Có thể nói theo thường nghĩa thì cụ thể và dễ hiểu hơn: Ví dụ, một âm thanh thoáng qua tai, một tâm lý dễ chịu phát sanh (lạc thọ, danh), ta ghi nhận nó cho đến khi sự dễ chịu ấy diệt mất - đấy là danh diệt. 2- Sắc diệt: Tương tợ như trên. Một hình ảnh, một âm thanh, một mùi hương (đều là sắc) - phải thấy rõ chúng diệt (theo lộ trình tâm) - thì ta mới tiếp nhận hình ảnh khác, âm thanh khác, mùi vị khác.
[38] 1- Sự sanh diệt của danh pháp: Mỗi tâm - ví dụ nhãn thức - có đời sống 01 sát-na rồi nhường chố cho tâm khác (Theo chú giải, một lầng búng đầu ngón tay, tâm sanh diệt liên tục 1000 tỷ lần. Mỗi sát-na còn chia ra 3 tiểu sát-na). 2- Sự sanh diệt của sắc pháp: Sắc pháp có 4 trạng thái: Sắc sanh, sắc trụ, sắc già và sắc diệt. Đời sống của 01 sắc pháp kéo dài 17 sát-na tâm.
[39] Hành giả sẽ thấy rõ sự diệt mất liên tục của mỗi tâm và tâm sở (năng tri) và sự diệt mất liên tục của các sắc đối tượng (sở tri) - nhờ vậy, diệt được những lầm tưởng vô thường cho là thường, vô ngã cho là ngã.
[40] Sự  muốn giải thoát này tương tợ như: Cá đang ở trong lưới. Nhái nằm trong miệng rắn. Gà rừng bị nhốt trong chuồng. Nai bị mắc bẫy. Voi rơi xuống hầm sâu. Long vương ở trong miệng điểu vương...
[41] Đây là trí quân bình tuyệt hảo, có tầm mức rất quan trọng - vì trí này chuẩn bị cho lộ trình tâm thánh đạo, ly thoát cõi dục, sắc và vô sắc; từ bỏ phàm phu tánh để thênh thanh bước vào miền đất tự do, giải thoát của thánh tánh. Và lộ trình thánh đạo ấy là như sau: 1- Parikamma: Chuẩn bị (thánh đạo tâm) - diễn ra 01 sát-na. 2- Upācāra: Cận hành (thánh đạo tâm) - diễn ra 01 sát-na. 3- Anuloma: Thuận thứ - 01 sát-na. 4- Gotrabhū: Chuyển tánh - 01 sát-na. 5- Maggacitta: Đạo tâm - 01 sát-na. 6.7- Phalacitta: Quả tâm - 02 sát-na. Lưu ý: 07 sát-na tâm này diễn ra ở tác hành tâm (javana). Và, 02 sát-na tâm chuẩn bị và cận hành chưa được gọi là trí - nên trí 12 tiếp theo sẽ là thuận thứ trí - tức là trí thuận với dòng tâm đi trước, thuận với dòng tâm đi sau; nói cách khác, thuận với các trí đi trước và thuận với 37 phẩm trợ đạo đi sau. Từ đây, hành giả bắt đầu đi vào thánh đạo tâm. 
[42] Đây là thiền quán vipassanā trên lộ trình đạo quả tứ thánh. Ví dụ Tu-đà-hoàn thì có Tu-đà-hoàn đạo, quả; Tư-đà-hàm đạo, quả... Nếu Tu-đà-hoàn thì mới cắt được 3 kiết sử thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ - được xem như thấy rõ một phần Niết-bàn lần thứ nhất trong đời. Tư-đà-hàm thì làm nhẹ bớt 02 sợi giấy tình dục và bất bình. A-na-hàm thì cắt đứt hẳn 05 sợi giấy ấy. Đến A-la-hán mới cắt đứt trọn vẹn 05 sợi còn lại: sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm và vô minh.
[43] Quan sát 5 điều: 1- Thấy rõ thánh đạo. 2- Thấy rõ thánh quả. 3- Thấy rõ Niết-bàn lần đầu. 4- Thấy rõ những phiền não đã diệt. 5- T hấy rõ những phiền não chưa diệt (trong 10 kiết sử: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, tình dục, bất bình, sắc ai, vô sắc ái, ngã mạn, phóng tâm, vô minh).
[44] Tôi thấy đoạn vấn đáp giữa đức vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên rất thú vị, xin trích ra đây để hầu bạn đọc.
“Vua Mi-lan-đà:
- Đại đức nói rằng có Niết-bàn, trẫm cũng tin như thế; nhưng nó ở đâu? Đông, tây, nam, bắc, thượng, hạ, trung?
Tỳ-khưu Na-tiên:
- Ở một nơi nào đó, một chỗ nào đó thì không phải là Niết-bàn, tâu đại vương!
- Thế là đã rõ!
- Đại vương rõ ra sao ạ?
- Thưa, rõ là không có Niết-bàn. Nó chỉ là hư vô, không tưởng! Niết-bàn đã là không có thì làm gì có chuyện tỏ lộ Niết-bàn, tỏ ngộ Niết-bàn? Và lại càng không có cái gọi là an trú Niết-bàn? Tại sao lại như thế? Vì khái niệm “trú”- là phải có một địa cư, một nơi chốn, một miền, một xứ, một cõi, một cảnh... để nương gá ở đấy, trú ở đấy... Ví dụ như ruộng là nơi nương trú của rất nhiều chủng loại lúa. Ví như quả đất là nơi nương trú của người, vật, núi sông, chim muông, cây cỏ... Vậy, nếu Niết-bàn không có một chỗ nào cả - thì chữ “trú”này không được thành lập, “trú”không được thành lập thì “tỏ rõ, tỏ lộ”Niết-bàn cũng không được thành lập; nếu “tỏ rõ, tỏ lộ”Niết-bàn không được thành lập thì “người chứng ngộ”Niết-bàn cũng không được thành lập! Thế, Niết-bàn ấy chỉ là không, khoảng không, không có gì cả! Tất cả không, thưa đại đức!”
Tôi chỉ trích một đoạn, vua Mi-lan-đà với lý luận logic, đanh thép - như đẩy tỳ-khưu Na-tiên đến tuyệt lộ; vậy thì vị đại đức của chúng ta sẽ trả lời như thế nào để sau rốt, vị vua hùng biện này đành phải khâm phục, chấp nhận lời giải thích của đại đức đã giúp ông ta cắt đứt tất thảy mọi nghi ngờ! Ai muốn nghiên cứu, tò mò để tìm lời giải đáp “hóc búa”này, xin hãy tìm đọc Mi-tiên vấn đáp của Hòa thượng Giới Nghiêm, NXB Phương Đông, năm 2009 (trang687-690).
[45] Trầm là chìm đắm, nịch cũng có nghĩa chìm đắm, mê say.
[46] Còn gọi là 4 lậu hoặc (cattāro āsavā). 1- Dục lậu (kāmāsava) - có nghĩa là tươm ra, rỉ ra, tiết ra sự dơ bẩn, bợn nhơ, xú uế...; chỉ cho sự si mê đắm say dục lạc ngũ trần. 2- Hữu lậu (bhavāsava) - chỉ cho tất thảy mọi sanh hữu - dục, sắc và vô sắc. 3- Kiến lậu (diṭṭhāsāva) - chỉ cho tất thảy mọi kiến chấp (cụ thể là 62 tà kiến được đức Phật đề cập trong kinh Phạm võng). 4- Vô minh lậu (avijjāsava): Trạng thái mê mờ không thấy ngũ uẩn, thập nhị nhân duyên, tứ đế...nên tạo ra vọng nghiệp khổ đau.
[47] Đúng ra phải là Kāmarāga. Lưu ý: Những nhà nghiên cứu, những học giả, những người biên soạn kinh sách thường không phân biệt được sự khác nhau của các từ: ước muốn, dục, tham, ái, tình dục... nhưng Pāḷi thì rất rõ. Chanda: ước muốn thuần túy (chưa có tội gì, ví như khát muốn uống, đói muốn ăn). Lobha: tham. Abhijjā: Tham lam. Macchariya: Gốc tham, gian tham đến độ xan lẩn, hà tiện, bỏn xẻn, keo kiệt... Kāma: Dục - chỉ những tham muốn ngũ trần. Taṇhā: Chỉ tất cả các ái (gốc ái dục trong vô minh và ái dục); nếu là ái dục giới thì gọi là Kāmataṇhā (dục ái); nếu là ái sắc giới thì gọi là Rūpataṇhā (sắc ái); nếu là ái vô sắc giới thì gọi là Arūpataṇhā( vô sắc ái). Riêng tình dục thì có từ Rāga có nghĩa là khát khao dục tình.
[48] Byāpada: Ác cảm, ác ý, oán hận ( nhẹ hơn hận thù (paṭigha). Từ này cũng vậy. Dosa: sân (gốc), nóng nảy, bất bình, khó chịu. Domanassa: Ưu, lo nghĩ, bực bội, buồn bực (gốc sân). Paṭigha: Hận, hiềm thù, ghét bỏ (Khi gặp một đối tượng làm cho ta bất bình, nóng nảy, khó chịu, không ưu thích... thì trạng thái sân ban đầu khởi lên (gốc sân); nếu sân này (dosa) tồn tại lâu, lưu giữ mãi trong tâm (thủ) thì sân này nó tăng cường độ, âm ỉ, âm thầm đốt cháy ở trong tâm - sẽ phát sanh ưu (domanassa) - tức là bực bội, buồn bực, lo nghĩ; cao độ hơn nó sẽ biến thành hận (paṭigha), ghét bỏ, hận thù, hiềm thù, hiềm hận - muốn công phá đối tượng, đập bỏ đối tương, đánh giết đối tượng).
[49] Rūpataṇhā: Sắc ái.
[50] Arūpataṇhā: Vô sắc ái.
[51] Đấy là 10 kiết sử được y cứ để tu tập tứ thánh đạo quả - giống với Thái và Myanmar.  Tuy nhiên, trong “Thắng pháp tập yếu luận”của ngài Minh Châu có đưa ra 10 kiết sử của Abhidamma và 10 kiết sử của Nikāya có khác chút ít:
* Abhidhamma: Dục ái kiết sử (kāmataṇhāsaṃyojana), Hữu ái kiết sử (bhavataṇhāsaṃyojana). Sân hận kiết sử (paṭighasaṃyojana). Mạn kiết sử (mānasaṃyojana). Kiến kiết sử (diṭṭhisaṃyojana). Giới cấm thủ kiết sử (sīlabbataparāmāsasaṃyojana). Nghi kiết sử (vicikicchāsaṃyojana). Tật kiết sử (issāsaṃyojana). Xan kiết sử (macchariyasaṃyojana). Vô minh kiết sử (avijjāsaṃyojana).

*Nikāya: Dục ái kiết sử, sắc ái, vô sắc ái, sân, mạn, kiến, giới cấm thủ, nghi, trạo cử, vô minh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét